Thu dạ dữ Hoàng Giang Nguyễn Nhược Thuỷ đồng phú
Nguyễn Trãi
Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,
Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.
Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,
Tứ bích hàn cung triệt dạ huyên.
Thiên lại (1) ngữ thu kinh thảo mộc,
Ngọc Thằng (2) đê Hán (3) chuyển càn khôn.
Cao trai độc toạ hồn vô mị,
Hảo bả tân thi hướng chí luân. (4)
(1) Tiếng vi vu giữa trời, nghe như tiếng sáo. Phàm những chỗ hư không phát ra tiếng đều gọi là "lại". Như "thiên lại" [天籟] tiếng trời, "địa lại" [地籟] tiếng đất, v.v
(2) Tên sao ở gần sao Bắc Đẩu. Lúc đêm khuya, sao này xuống thấp gần Ngân Hà.
(3) Hán : Còn gọi là Thiên Hà, tức Ngân Hà.
(4) luân: Gốc là luận, có thể đọc thành luân trong thơ.
Dịch nghĩa
Lá đỏ chất đầy sân, trúc ôm cửa
Đầy thềm trăng sáng, đã quá hoàng hôn
Từ chín từng mây, những hạt móc trong thấm ướt ba canh
Bốn vách dế lạnh kêu suốt đêm
Tiếng trời nói thu đến làm kinh động cây cỏ
Sao Ngọc thằng xuống thấp gần sông Ngân hà, chuyển trời đất
Ngồi một mình trên phòng cao, không ngủ được
Hãy đem bài thơ mới nói đến chí mình.
秋夜與黃江阮若水同賦
紅葉堆庭竹擁門,
滿階明月過黃昏。
九霄清露三更濕,
四壁寒蛩徹夜喧。
天籟語秋驚草木,
玉繩低漢轉乾坤。
高齋獨坐渾無寐,
好把新詩向志論。
Lá đổ sân dầy, trúc án cửa
Cả thềm trăng, trời đã về đêm
Sương xa tỏa lạnh ba canh thấm
Ve rét than khuya bốn vách rền.
Thiên lại báo thu lay cỏ lá
Ngọc Thằng xuống Hán, động đất trời
Phòng cao một bóng, ngồi không ngủ
Chí hướng vào thơ gửi mấy lời.
Bản dịch của Lê Cao Phan