Oan thán 冤嘆 • Oán than
Nguyễn Trãi
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào tri thị mệnh,
Văn (1) như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối (2) không tao nhục,
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên.
(1) văn trị
(2) độc bối: lưng tờ giấy
Dịch nghĩa:
Nổi chìm trong cảnh phù tục đã năm mươi năm
Đành phụ với khe đá núi cũ
Danh hư mà hoạ thực, thật đáng buồn cười
Chúng nhạo kẻ trung thành đơn độc thật đáng thương hại
Khó chạy khỏi số trời, biết là có mạng
Nền văn cũng chưa mai một nhờ trời
Trong ngục xem lưng tờ giấy, thật là nhục nhã
Làm sao đạt được tờ giấy (khiếu oan) đến cửa khuyết vàng (cung vua)?
冤嘆
浮俗升沉五十年,
故山泉石負情緣。
虛名實禍殊堪笑,
眾謗孤忠絕可憐。
數有難逃知是命,
文如未喪也關天。
獄中牘背空遭辱,
金闕何由達寸箋
Bài thơ này hẳn là được sáng tác năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) lúc tác giả bị bắt giam vì nghi có liên can với tướng Trần Nguyên Hãn, anh em họ ngoại của tác giả, từng theo Lê Lợi tại Lam Sơn nhưng bị Lê Lợi bức tử (trầm mình) vì nghi làm phản.
Năm mươi năm thế tục bình bồng
Khe núi lòng cam bội ước chung
Cười nạn hư danh, trò thực họa
Thương phường báng bổ kẻ cô trung
Mạng đà định số, làm sao thoát
Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
Oan tình khó đạt tới hoàng cung.
Bản dịch của Lê Cao Phan