Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy 送阮士有南歸


Nguyễn Du

Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa,

Phi khứ phi lai khinh võng la.

Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ,

Bạch đầu vô lại bất hoàn gia.

Sinh bình văn thái tàn lung phượng,

Phù thế công danh tẩu hác xà.

Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt,

Ngọ song vô mộng đáo thiên nha (nhai).


   送阮士有南歸


南山有鳥含精華,

飛去飛來輕網羅。

鴻嶺有人來做主,

白頭無賴不還家。

生平文彩殘籠鳳,

浮世功名走壑蛇。

歸去故鄉好風月,

午窗無夢到天涯。

Núi Nam có con chim ngậm tinh hoa,

Bay đi bay về xem thường lưới bẫy.

Từ nay Hồng Lĩnh đã có người về làm chủ,

Còn ta đầu bạc, chẳng nên trò trống gì, mà vẫn không về nhà.

Cái dáng nho nhã bình sinh nay xơ xác như con phượng nhốt trong lồng.

Công danh thì như con rắn chui tuột vào hang lúc nào rồi.

Bạn trở về quê hương tha hồ hưởng thú trăng trong gió mát,

Trưa nằm ngủ trước cửa sổ, chẳng mơ màng đến chuyện phương trời xa.


Bản dịch của Nguyễn Thạch Giang

Núi Nam chim ấy ngậm tinh hoa

Lưới bẫn coi khinh cứ lại qua.

Hồng Lĩnh có người nay đứng chủ,

Bạc đầu thẹn tớ vẫn xa nhà.

Công danh rắn lỗ đà hun hút,

Văn vẻ phượng lồng đứng xác xơ.

Quê cũ bạn cùng trăng gió đẹp,

Giấc trưa bẵng mộng chốn trời xa.


Nguyễn Sĩ Hữu tức Nguyễn Quýnh, anh trai cùng bố khác mẹ với Nguyễn Du. Ông sinh năm 1761, hơn Nguyễn Du 4 tuổi. Năm 20 tuổi ông thi Hương đậu Tam Trường khoa Kỷ Hợi (1779) đời Cảnh Hưng vua Lê Hiển Tông. Giữ chức Trấn tả đội Thái Nguyên, nơi anh Thượng thư bộ lại Nguyễn Khản kiêm Trấn Thủ Hưng Hoá và Thái Nguyên. Sau sự kiện Nguyễn Đăng Tiến (đại lang) khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Thái Nguyên (1787) thất bại, từ Thái Nguyên, Nguyễn Đăng Tiến và Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh đi ngựa sang Vân Nam vào cuối năm 1787. Đến Liễu Châu, hai người chia tay Nguyễn đại lang về chốn quê cũ thăm nhà.