Của kho vô tận
Nguyễn Quý Tân
Thuỷ trúc vân sơn địa,
Phong hoa tuyết nguyệt thiên. (1)
Dựa gốc tùng giở ván cờ tiên,
Vầy tiệc cúc nghiêng bầu rượu thánh.
Khi thong thả nhất tràng nhất vịnh, (2)
Khách Lan Đình cơn tỉnh cơn say. (3)
Khúc cầm xoang mài miệt canh chầy,
Dịu dặt đủ năm cung hoà nhã.
Của thích tình sẵn sàng nơi thôn dã,
Đủ tiêu dùng xuân, hạ, thu, đông.
Thảnh thơi gió mát trăng trong,
Bức tranh sơn thuỷ một vùng cỏ hoa.
Thú này ai dễ hơn ta.
Nguồn: Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Nhà in Văn Khoa, Sài Gòn, 1962
(1) Chữ Hán: 水竹雲山地,風花雪月天. Nghĩa: Ở trên mặt đất cố sông, có trúc, có mây, có núi; Dưới bầu trời có gió, hoa, tuyết, trăng
(2) nhất tràng nhất vịnh: mỗi chén rượu một bài thơ
(3) Vương Hy Chi làm ngôi nhà bên bờ sông Lan, gọi là Lan Đình, họp bạn làm thơ. Chữ ông viết rất đẹp, đời gọi là thiếp Lan Đình