Ngã ba Hạc phú
Nguyễn Bá Lân
(Lấy vần Hạc)
Vui thay! Ngã ba Hạc;
Vui thay! Ngã ba Hạc.
Dưới họp một dòng;
Trên chia ba ngác.
Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào; Lênh lang dễ biết sâu nông, nước đen pha nước bạc.
Nhớ xưa:
Vũ trụ mơ màng;
Càn khôn xếch xác.
Vua Bàn Cổ khai lò tạo hoá, hồng mông đà phơi phới hơi xuân;
Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn hà, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.
Vậy có:
Nắm đất Đoài phương;
Cạnh giời Nam quốc.
Ba góc bờ chia vành vạnh, huyệt kim quy hẻm đá rộng hông hênh;
Hai bên cỏ mọc lâm dâm, hang anh vũ giữa dòng sâu huếch hoác.
Mọi thú mọi vui;
Một chiều một khác.
Lơ thơ đầu ông Lã thả cần;
Trần trụi mặc Chử Đồng ngâm nước.
Bè khách thương bạ bến, cắm neo quỳ gối lắc cày xuôi;
Thuyền ngư phủ thuận dòng, giương nách khom lưng chèo tếch ngược.
Dùi điểm thùng thùng trống gọi, cửa tuần ty rộn rã khách chen vai;
Chày đâm văng vẳng chuông đưa, nền Phật tự lao xao người rén bước.
Khác gì:
Những chốn Tiêu Tương;
Đồ Tranh thuỷ mặc.
Trên lọ phải vén quần vua Tống, ra sức anh uy;
Dưới cũng vỗ bụng giời Nghiêu, dắng ca canh tạc.
Ta nay:
Qua miền Tam Đái, dứt dải sông lô;
Thấy ngã ba Hạc vui thay, làm chơi một đạc.
Ai hữu tình ngắm lại mà coi;
Kể làm cực nhân sinh chi khoái lạc.
Ngã ba Hạc là chỗ hợp lưu của ba sông là sông Đà (hoặc sông Bờ), sông Lô (hoặc sông Tuyên) và sông Nhị Hà, ở giáp huyện Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh Yên).
Nguồn: Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, 1951