Phan Đình Phùng
Phan Đình Phùng (1847-1895) hiệu Châu Phong 珠峰, sinh tại làng Đông Thái, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Phan Đình Phùng đỗ cử nhân năm 1876. Năm sau, đậu đình nguyên tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Sau đó ông được đổi về kinh đô Huế, sung chức Ngự sử đô sát viện. Ông nổi tiếng trong triều về đức tính cương trực, thẳng thắn. Năm 1882, ông dâng sớ đàn hặc thiếu bảo Nguyễn Chánh về tội “ứng binh bất viện” (cầm quân ngồi yên không đi tiếp viện) khi giặc Pháp tấn công thành Nam Định. Do bất đồng quan điểm với Tôn Thất Thuyết về việc phế Dục Đức, lập Hiệp Hoà (1883) ông bị cách chức, về quê lập trại cày, tự hiệu là Châu Phong.
Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, Phan Đình Phùng đã đứng ra chiêu tập lực lượng chống Pháp. Các anh hùng, hào kiệt khắp bốn tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh - Quảng Bình tự nguyện liên kết lực lượng dưới quyền chỉ huy của ông. Nghĩa quân đã xây dựng căn cứ tại Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh).
Ông đã tổ chức lực lượng nghĩa quân theo đạo quân chính quy; có 15 quân thứ với cùng một kiểu trang phục, kỷ luật nghiêm minh. Các quân thứ được đặt tại các địa phương, rải suốt bốn tỉnh và hợp tác tác chiến nhịp nhàng theo kế hoạch từ đại bản doanh núi Vụ Quang. Ông cùng các tướng như Cao Thắng nghiên cứu, chế tác thành công được gần 500 khẩu súng trường kiểu 1874 của Pháp để trang bị cho quân lính.
Suốt mười năm trời (1885-1895), bất chấp mọi khó khăn gian khổ, nghĩa quân Phan Đình Phùng đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất nặng nề. Ngoài các hình thức chiến đấu tiến lui, công đồn, diệt viện, Phan Đình Phùng đã chỉ huy nghĩa quân xây dựng làng chiến đấu, áp dụng lối đánh du kích, có hầm chông cạm bẫy. Sau một loạt trận công đồn, chiến thắng lẫy lừng, trận Vụ Quang (10-1894) là nổi tiếng, vang dội và gây cho giặc thất bại nặng nề nhất.
Thực dân Pháp thấy không thể dùng sức mạnh quân sự dẹp tắt được nghĩa quân, nên dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc ông. Chúng lợi dụng các tên Việt gian như: Phan Trọng Mưu, Võ Khoa, Hoàng Cao Khải viết thư lấy tình xưa nghĩa cũ để khuyên ông ra hàng. Trước mọi sự cám dỗ, đường mật, Phan Đình Phùng vẫn giữ lòng son sắt cự tuyệt. Trong lúc cuộc chiến đấu còn tiếp diễn thì không may ngày 28-12-1895, do mắc bệnh lỵ nặng, Phan Đình Phùng đã qua đời tại bản doanh (núi Quạt) thọ 49 tuổi.