Tản Đà
Tản Đà 傘沱 (1889-1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu 阮克孝, sinh tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, một làng trung du nhỏ bên sông Đà, chỉ cách núi Tản Viên 10km đường chim bay.
Năm Nguyễn Khắc Hiếu lên ba tuổi thì thân phụ qua đời, năm lên 4 mẹ trở lại nghề cũ với tiếng đàn câu hát, khi Hà Nội, khi Bắc Ninh. Từ đó, ông được người anh khác mẹ là Nguyễn Tái Tích, phó bảng ra giáo thụ, nuôi dưỡng và cho ăn học chuyên về khoa cử. Do ảnh hưởng gia đình, năm 14 tuổi, ông đã thạo các lối từ chương thi phú. Năm 1907, ông theo anh ra Hà Nội, học trường Quy Thức ở phố Gia Ngư. Năm 1909, đi thi Hương ở Nam Định, bị hỏng. Năm 1912, đi thi khoa Nhâm Tý với hy vọng nếu đỗ cử nhân thì sẽ kết duyên cùng nàng Đỗ thị ở phố Hàng Bồ, Hà Nội, nhưng vẫn hỏng. Trở về Hà Nội, chứng kiến người yêu là cô Đỗ đi lấy chồng, ông chán nản bỏ về Hoà Bình tìm khuây lãng; rồi cùng bạn là nhà tư sản Bạch Thái Bưởi lên chùa uống rượu, làm thơ và thưởng trăng, sống theo lối “tịch cốc”.
Năm 1915, ông lập gia đình. Năm 1916, người anh từ trần, gia đình trở nên cùng túng, Tản Đà quyết định chuyển hẳn sang nghề cầm bút. Thời gian này ông viết tuồng cho các rạp và được đọc thêm nhiều sách dịch Âu Tây bằng chữ Hán, nhờ đó tư tưởng có nhiều biến chuyển.
Năm 1920, đi du lịch ở Huế, Đà Nẵng, trở về viết truyện Thề non nước. Năm 1921, làm chủ bút tờ Hữu Thanh tạp chí. Được 6 tháng, từ chức, trở về quê. Năm 1922, lại ra Hà Nội lập Tản Đà thư điếm, sau tập hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà thư cục.
Năm 1925, phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ, Tản Đà càng nhập thế tích cực hơn. Ông tổ chức một chuyến du lịch vào Nam, gặp gỡ nhiều nhà chí sĩ và viết bài trên nhiều báo. Tháng 2 năm 1928, trở về Bắc, rồi lên định cư vùng Yên Lập (Vĩnh Yên), nhưng bị quan lại địa phương gây khó dễ, phải xuống Hải Phòng, rồi lại lên Hà Nội. Năm 1933, sau khi An Nam tạp chí bị đình bản, ông chuyển sang trợ bút cho Văn học tạp chí ít lâu rồi về quê ở ẩn.
Cuối năm 1937, chuyển về làng Hà Trì (Hà Đông), tham gia dịch thuật, viết báo. Sau vì bị viên quan Tổng đốc Hà Đông thù ghét, phải chuyển ra Hà Nội, mở lớp dạy Quốc văn hàm thụ, Hán văn diễn giảng, kiêm cả xem lý số Hà lạc. Ông sống nghèo đói, không đủ ăn và trả tiền nhà, bị chủ nhà tịch thu đồ đạc và đuổi đi, Tản Đà phải cùng gia đình dọn về phố Cầu Mới. Trong hai năm 1937 và 1938, ông dịch thơ Đường đăng nhiều trên báo Ngày nay.
Ông qua đời vì bệnh vào ngày 7 tháng 6 năm 1939 (20 tháng 4 năm Kỷ Mão) tại nhà 71 phố Cầu Mới, Ngã Tư Sở, Hà Nội (nay là nhà số 47 Nguyễn Trãi), thọ 51 tuổi. Năm 1963, di hài Tản Đà đã được cải táng đưa về chôn ở cánh đồng Cửu Quán, thôn Hội Xá (quê vợ của nhà thơ), xã Hương Sơn, tỉnh Hà Tây cũ.
Nguồn: thivien.net