Hàn vương tôn phú
Đặng Trần Thường
Hàn vương tôn, Hàn vương tôn!
Vũ phúc giáng thần,
Kim kê giáng thuỵ.
Kinh sử năm xe chua chất, ngang trời dọc đất ấy kinh luân,
Tôn Ngô bảy quyền làu thông, đè sóng xông mây là chí khí.
Hội chiến tranh ếch đã vang tai,
Bề thao lược ngọc còn giấu vẻ.
Một cần trúc vắt ngang dòng Lệ thuỷ, Hồng xích Lưu trong phảng phất lẫn bên thành,
Ba thước gươm cầm lại chợ Hoài Minh, Hươu Hàm Cốc tưởng đinh ninh nằm chốc đáy.
Đồ phong vân trước mắt ngắm nhơn nhơn,
Túi thao lược bên mình đeo nhẹ nhẹ!
Mùi tư vị thiếu gỏi Tần nem Hạng, nặng vì đường tri kỷ, bữa sâng siu (tâng tiu) nên lỡ mấy mụ già,
Bước trần ai còn áo Lã cơm Hề, xem hẳn cũng kiêm (sic) nhân, lời nheo nhuốc sá chấp chi con trẻ.
Thông sao nơi huỷ hạ hẹp hòi,
Xá chi chít lang trung thỏ tí.
Hăm hở quyết lòng theo giúp Hán, hang sâu chưa kịp nức mùi lan,
Ngậm ngùi đấu trí nhớ về Đông, đất cũ lại thẳng dong vô ký.
Ngòi Hàn Khê từ giở (sic) bạn phượng loan,
Đất Ba Thục lại dứt đường phú quý.
Đủng đỉnh lên đàn đại tướng, ba quân trông mặt khiếp uy thanh,
Khoan thai lĩnh ấn nguyên nhung, thiên tử nghiêng mình trao tiết chế.
Chín lần bàn bạc thâm mưu,
Muôn dặm danh đường trọng ký.
Đắp thành mở đường cố đạo, tịch quyến Tam Tần,
Hậu quân dương mặt đông quan, sấm vang bốn bể.
Dưới màn hằng tư tưởng Di Ngô,
Trên ngựa những băn khoăn Bạch Khỉ.
Thuyền san sát khắp bầy sông Lâm tấn, Nguỵ quanh thành quân kéo đen sì,
Trống long tong qua ải Tỉnh hình, Triệu bốn mặt cờ bay đỏ choé.
Áng giáp dùng bài nhu viễn, lấy gang tấc dấy nẹt cường bang,
Quyết nang bày trận công nhân, đem bảy mươi thành dâng Xích đế.
Đứa Long Thư cương rắn hết hung hăng,
Thằng Vũ Thiệp lưỡi mềm khôn thỏ thẻ.
Tước lộc trót nhờ cơm áo Hán, đuổi tỳ hưu mong bắt lại đền ơn,
Giàu sang bao quản nước non Tề, xua muông cẩu kẻo ra lòng bội nghĩa.
Gẫm kim cổ so ba tướng cỏn xa,
Sức chiến đấu đọ bách phu nào ví.
Người biết hưng vong là thiên số, Hán tuy chưa mở mang nền bách nhị, song mạng trời về có đức, vốn ngõ then từ chém rắn hay rồng,
Ai hay thành bại cũng nhơn mưu, Hán khi còn lững thững đất Ba Xuyên, mà deo mình về mái tả, đã vén cánh quyết đè hươu bắt khỉ.
Ỏi ác biết lòng du tử, vậy khi đóng Định Đào, khi quân Tu Vũ, ra vào then khoá chẳng ngờ,
Trung trinh giữ tiết nhơn thần, mà dù chơi Vân Mộng, dù được Trần Hy, bối rối tóc tơ dám nghĩ.
Há có lòng như Hy, Bố chút nào,
Tiếc thẹn mặt với Phàn, Đằng một tí.
Cơn tỉnh chấn nghĩ Tề điều biến trá, lời tự vương so đổ tiếng trượng phu,
Lúc trần binh e Sở mới thanh bình, thư mưu phản khéo oan lòng quốc sĩ.
Ơn nho nhỏ cũng lấy vàng mà báo đáp, đỉnh chung này đâu có lẽ thờ ơ,
Oán rành rành còn cho tước để sinh dùng, giang san ấy há lại lòng ngấp nghé.
Giơ cung bắn thỏ, nặng sức nam nhi,
Được cá bỏ nơm, quản đây thế vị.
Đường phú quý có sức nào chuyển được, nọ kẻ trướng màn khuya sớm, chốn Cốc thành còn phải lánh mình đi,
Áng công danh hầu ai để giúp đâu, kìa người then khoá bấy lâu, vườn thượng uyển cũng còn lây tiếng luỵ.
Chót tao phùng đã dính lợi công danh,
Thôi vinh nhục lọ bàn phi với thị.
Lành thanh!
Văn vũ gặp thời,
Côn bằng phỉ chí.
Luận tài năng, suốt Tây Kinh, Đông Hán chưa ai,
So huân nghiệp, dẫu Chậu, Thiệu, Thái Công khả ví.
Nhà thạch thất dẫu nhạt son mòn sắt, danh tướng quân đành muôn kiếp còn thơm,
Nền kim đao dù nguội lửa phai vàng, công tướng quân dẫu ngàn năm như vẽ.
Tôi nay xem pho cựu sử, đọc truyện nhơn thần, thấy câu “Hán đắc thiên hạ, đại để giai Tín chi công”,
Chưa từng chẳng thán tích Hàn vương tôn chi anh tài, mà thầm trách Hán Cao hoàng chi sai kỵ.
Bài phú này nói về Hàn Tín, công thần khai quốc của Hán Cao Tổ, sau bị Cao Tổ và Lã hậu giết chết. Tương truyền Đặng Trần Thường làm bài phú này khi bị bắt giam trong ngục, tự ví mình như Hàn Tín.