Đào Nguyên hành
Phùng Khắc Khoan
Vô sự là tiểu thần tiên
Gẫm xem ngoại thú lâm tuyền cực vui
Đất vua ai chẳng là tôi
Non cao hang thẳm cũng đời tôn thân
Đôi vần ác thỏ đổi lần
Muôn hoa giáp tý xoay vần bàn tay
Thú này ai là kẻ hay
Dẫu nghìn vàng đổi trao tay chẳng thà
Non cao xem lấy làm nhà
Sắt là vách cứng ngọc là bình che
Xung quanh nước chảy rò rè
Khoang rồng uốn khúc tốt ghê hữu tình
Đoá mây phù rợp tàn xanh
Rừng in nội lục chung quanh làng ghềnh
Cảnh này lọ là vẽ tranh
Ngọn cây sớm sớm treo tranh mặt hồng
Chọc nơi đất rộng chốn không
Mở vườn dăm mẫu vun trồng sinh hoa
Quanh tường dâu rậm nên là
Tằm nên tơ tốt đầy nhà lụa phơi
Phát kinh, phát cức trồng gai
Đan lưới đan chài dưỡng thú ngư hà
Trồng dưa chớ để mùa qua
Ngăn phên mắt cáo kẻo gà đạp kê
Quanh vườn thả đậu sừng dê
Mướp trâu dưa chuột bốn bề leo rong
Cà con chớ lộn cà ông
Vãi cải vãi vừng vãi cùng một nương
Mã đề gieo khắp triêng đường
U thê rau diếp kề hàng măng mai
Hành tỏi ai kẻ ưa ai
Lá ngô rã rượi tóc dài lả ra
Nhăn nhắt hành ta kiệu ta
Thơm thanh hăng hắng thì là mùi tui
Già răm cho húng phải lui
Măng ếch lá lốt hợp mùi xương sông
Riềng cay thấy gỏi đã hòng
Khổ qua chịu đắng leo giông leo dài
Bột đao gần khóm củ mài
Kìa rau răng ngựa, nọ khoai nanh hùm
Đỏ tươi chon chót bông đum
Xanh đen ngăn ngắt mầu um lá chàm
Đậu đao núc nác tài phàn
Ấy cũng nên làm quét rác nhà quan
Chiêng chiếng nhiều nét đa đoan
Thấy người đeo đẳng lại toan ghẹo người
Bí đao nhếch nhác phấn vôi
Bầu leo nghểnh cổ hãy ngồi trông qua
Rễ dứa củ dể dái ra
Mít dến dần dà bắt chước học theo
Xanh lè cải mới lưỡi mèo
Thả gần lú bú xin đèo bên sau
Màn màn bồ ngót gặp nhau
Bạn cùng chua muối mặc dầu vườn quanh
Cau con lá lục trái xanh
Ngọn trầu tay áo leo cành chân chim
Nghệ trừ éo léo bóng êm
Tới đám dong rậm lại tìm thấy nhau
Mã họ ỷ lạm ỷ giầu
Dan tay dắt díu đến đâu có tiền
Gấm kia ruộm trắng làm đen
Cơm lồng duy bế cũng đỏ tầy vang
Mía kia ngọt miệng hơn đường
Chuối nọ buồng kín thời càng nhiều con
Tỏi mày thói cũ hãy còn
Ngứa gan khôn kẻ xoa trôn cho người
Quyết mình nhan sắc tốt tươi
Đầu cành ra mở chẳng rời muốn khi
Đường gian vậy người hãy đi
Cứng thì xương, cá mềm thì đuôi lươn
Lòng quì hãy một hướng dương
Vật hiền là bị chở màng thuyết vơi
Bao lai có tính thài lài
Làm nên ruộm chớ một tay đàn bà
Phất phơ mấy khóm hồ ma
Thấy cây quỉ tiễn dài đà bằng vai
Ngoài vườn mỗi thức mỗi tươi
Quanh nhà cảnh vật đông người càng ra
Chân vịt len chen cỏ gà
Từng lấy vỏ ốc hoà mài rau đay
Dớt dèo nói chi mồng tơi
Lết đết bận người, người chém người vơ
Mấy cành đan quế rậm rà
Mộc tô đeo xạ nức đà mùi hương
Khóm lăng khóm huệ nên hàng
Cúc hoa nấu hoàng lễ khắp ngoài sân
Màn trướng tán lục tần vần
Huyết dụ áo lía để chân đứng bầy
Bông lơi ngan ngát thơm cay
Hương xông khóm sói nức đầy nhà tiên
Giậu hoa ngó vào thống sen
Bông bụt choi chói tóc tiên rà rà
Nửa ngày giờ ngọ nở ra
Thúc hoàng nghi ngút trước nhà ngọc treo
Thông xanh thấy gió mừng reo
Trúc già văn vẻ vẩy đeo đồi mồi
Mừng thay thung tốt huyên tươi
Cây kinh cây đệ ấy đôi bạn lành
Nàng Diêu ả Nguỵ khoe thanh
Mẫu đơn học thói tâm tình chuyển di
Hải đường thức mấy tỉnh say
Miệng cười hớn hở xem tầy Thái Chân
Tử vi là đấng thanh tân
Thược dược quen thói chiều gần chốn nao
Tầm xuân cậy có thanh tao
Biết người ướm hỏi càng chào mình sơ
Thiên lý thơm nghìn dặm dư
Thấy ai xin xú luyện đưa hoạ trường
Bồ câu nhị ngọc đậm hương
Bươm bướm pha vàng trên đất con ong
Hương yến bẻ thẳng làm cong
Quýt chanh bay chớ đèo bòng làm chi
Lần mặt cam sành ra gì
Dấp chua bưởi ngọt cũng thì đầy hai
Hồng ganh thị cậy có tai
Trái cay nói vậy nào có cay đâu
Dừa già đắp gốc sống lâu
Bàng xin đến đầu lụ khụ làm tôi
Trái móc có dùm có đôi
Thiên tuế nghìn đời dâng tiến cho vua
Bồ đề mến bụt ở chùa
Ngộ quân ta đã gặp vua duyên lành
Chát đặc thời trái sung xanh
Chất chứa từng vại lấy dành làm cao
Trái chôm ấy cơn cớ nào
Ngậm miệng tim hỉm chẳng chào mới ghê
Muốn ăn trái bật trái lê
Hoạ nhà con cái chợ quê theo tìm
Mới hay bèo nổi mận chìm
Kìa ai mát nước đi tìm trái trôi
Cây gạo nở cắc làm đôi
Nắm cơm đem lại trúc xôi mấy mầu
Trái quýt đỏ mặt ngầu ngầu
Đầy mâm mã não quanh thau mặt hồng
Quyến chim thời cây đa lông
Lá lộc trái hồng cây cả bóng sa
Lão ông hảo cái con bà
Ỏng eo chú khế nay đà quá chua
Trái gáo bạn cùng thầy tu
Cây meo cửa chùa thể đã chua thay
Trái vải đầu hạng mọi cây
Ai có con mắt xem hay nhãn lồng
Tầm gửi ai là kẻ trồng
Bọ ngựa chạy lồng trên khóm mía voi
Hội thương còn chút trái roi
Trái dành tích để đầy lu hãy còn
Đắng ai ăn được bồ hòn
Chẳng hay óc nó có ngon có bùi
Trái trám chua chua bùi bùi
Ăn quen phải mùi liền chùi chẳng đi
Chớ ăn trái duối làm chi
Rác nhà phải quét chẳng khi nào đừng
Theo tìm trái vả vào rừng
Chát xanh chín ngọt ai từng ai hay
Sự này mới càng là hay
Trái ớt trái xẻn cay tầy hồ tiêu
Trái táo năng nẳng tầy đều
Rêu cao phải trèo đỏ mặt tía tai
Trái mèo thủn thỉn đã đầy
Thủng thẳng dái khỉ thôi thay vú bò
Trái găng trộn lẫn như vò
Dung dúc luẩn quẩn cũng trò canh châu
Trái chay lòng đỏ ngầu ngầu
Trái dum dốc ngược trơ đầu làm trôn
Dâu da thị dứa càng ngon
Phô loài vật ấy dư muôn bề ngoài
Đèn dầu sang đốt hôm mai
Trái trẩu trái sở trái lai trái dầu
Vàng tâm lâm đống xoan đâu
Miếu đường giồng cả chưng sau được dùng
Bông lau lông vịt lấy bông
Làm chăn làm đệm mùa đông ngự hàn
Trâu bò gà lợn dê ngan
Đầy lũ đầy đàn thả khắp mọi nơi
Ngày nhiều vật lạ của tươi
Che chở nghìn đời dân ấm dân no
Chữ rằng: Thân tại giang hồ
Tâm tồn ngoại khuyết, mặc vua đâu đành
Há rằng tỉa tót thuyết vần
Vật cách tri trí thánh nhân ở đầu
Thanh nhàn vui mặc quản bao
Chè thang thuốc dưỡng sống lâu đến già
Luyện lê là thêm tuổi già
Tóc bạc bằng hoa chẳng qua lâm tuyền
Ai hỏi tiên rằng ấy tiên.
Bài thơ còn có tên khác là Lâm tuyền vãn. Đây là bài thơ nôm lục bát dài và xuất hiện khá sớm. Trừ khoảng 16 câu đầu, tác giả mô tả các cây trồng, cách thức sản xuất, nuôi gia cầm, gia súc,... của nhà nông thời ấy.