Nguyễn Huy Tự - Hoa Tiên Truyện
Hồi 1
1. Trăm năm một sợi chỉ hồng,
Buộc người tài sắc vào trong khung trời.
Sự đời thử ngẫm mà chơi,
Tình duyên hai chữ với người hay sao?
5. Từng nghe trăng gió duyên nào,
Bể sâu là nghĩa, non cao là tình.
Người dung hạnh, bậc tài danh,
Nghìn thu để một mối tình làm gương.
Cõi Tô châu, giải Ngô giang,
10. Khí thiêng đúc lại họ Lương một nhà.
Tướng công chữ gọi Ấn Ba,
Sang yêu sớm đã dự toà Bình chương.
Gió thanh hây hẩy gác vàng,
Thảnh thơi chèo Phó, nhẹ nhàng gánh Y.
15. Họ Diêu rạng vẻ môn mi,
Điềm lành sớm ứng lân nhi một chàng.
Huý Phương Châu, tự Diệc Thương,
Phong nghi khác giá, từ chương tót loài.
Gấm hoa tài mạo gồm hai,
20. Đua chân nhảy phượng chen vai cỡi kình.
Gia quan mới dạo nhà huỳnh,
Thú nhà hầu hạ huyên đình bấy lâu.
Song hồ nấn ná thôn dâu,
Thẻ rồng xuân điểm ngày thâu chìm chìm.
25. Lối thơm khi nhẹ gót tìm,
Mùi hoa như nước, tiếng chim ngỡ chào.
Sóng đào mảnh, mảnh hoa đào,
Hoa xuân lóng lánh khác nào mặt xuân.
Hẹn phong lưu để nợ nần,
30. Bạn song âu thẹn vũng tần đôi uyên.
Rộng chân thử dạo khơi miền,
Dẩy dun may được như nguyền biết đâu!
Gửi qua khúm núm dưới lầu,
Xin ra du học Tràng châu quê ngoài.
35. Dạy rằng: “Hồ thỉ chí trai,
“Tìm thầy hỏi bạn chi hoài bỗng dưng.
“Vả từ quê Vị khơi chừng,
“Ngày sinh nhật mợ, sang mừng cũng hay.
“Sẵn nơi trú ngụ đâu tày,
40. “Tiện tra phả hệ bấy nay cho tường.
“Rồi ra luyện tập văn chương,
“Cách nào rạng dấu thư hương mặc lòng!”
Lĩnh lời sắp gánh giục đồng,
Thuyền lan một lá xuôi dòng thênh thênh.
45. Tà tà bóng ngả im doành,
Đầu doi bay lộ cuối ghềnh nổi âu.
Ca chèo gió lọt tiếng đâu,
Nhác trông đã thấy Tràng châu ghé thuyền,
Nhà xuân vừa mở thọ diên,
50. Chén pha giếng cúc, bàn chen non đào.
Lạy bày mừng rỡ xon xao,
Lại truyền công tử họ Diêu rước mừng.
Hàn huyên cùng giải tưng bừng,
Mới hay Diêu cữu chuyển thăng Đô đường.
55. Bóng nghiêng chuốc chén tàng tàng,
Tiệc thôi Diêu mới đưa sang trú phòng.
Anh em kề vế bày lòng,
Góp đem phong nguyệt vào trong phẩm đề.
Khói um mấy đỉnh hương nghê,
60. Chợt nghe tin gọi Diêu về thư trai.
Đồng say, khách lạ, canh dài,
Một trăng, một bóng, một người hoá ba.
Ưa chân theo thú lân la,
Ngậm trăng nửa nóc, phun hoa bốn hè.
65. Tiêm cài, giá chất so le,
Vẽ niêm dấu cổ, thơ đề lối chân.
Cầm giao sẵn dóng dây huân,
Nuôi tươi chậu chậu, cắm xuân cành cành.
Gương treo bóng lộn màu thanh,
70. Trong hiên đã vậy, ngoài sanh mới càng.
Bức lan quanh quất mặt tường,
Màu sen hơn hởn, bóng dương rầu rầu.
Ngòi thơm dợn nước làu làu,
Rặng cây khuất khuất, lưng cầu khom khom.
75. Thuỷ đình ngả bóng om om,
Rút đường khúc kỉnh qua chòm tàng xuân.
Đào thơm điểm điểm ngân trần,
Sào ngư mường tượng cắm gần đâu đây.
Nảy cành oanh động tiếng tiếng say,
80. Mảnh hoa đâu đã tin bay qua tường.
Đường hoa lành lạnh hơi sương,
Dừng chân hầu rắp nhận đường về trai.
Tiếng đâu gió lọt bên tai,
Đem thanh dường vẫn còn ai say cờ.
85. Đè chừng rén bước thẩn thơ,
Iít nhiều hương cụm, nhặt thưa bóng cành.
Mẫu đơn lộ mở con đình,
Xạ đâu đòi trận lọt mành phôi pha.
Vừa cơn mây bợn trăng loà,
90. Mảnh tình gửi nét thu ba đưa vào.
Cuộc tiên đôi ả má đào,
Riêng làn xiêm trắng đem vào mắt xanh.
Gió đông gờn gợn sóng tình,
Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn.
95. Mặn mà chìm cá rơi nhàn,
Nguyệt ghen gương khép, hoa hờn thắm thay.
Thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy,
Càng tươi tỉnh nét, càng say sưa tình.
Bụi trần chẳng bợn đỉnh đinh,
100. Dưới tùng trong quít âu đành là đây.
Gió đâu run rủi duyên này,
Cả liều mật sắc vào ngay trước bàn.
Rèm tương động, thét tiếng hoàn,
Vẻ lan vừa chán, gót sen vội dời.
105. Nhác trông chiều mỉm mỉm cười,
Sóng dầm khoé hạnh, chưa rời nét trông.
Môi đào hé mặt phù dung,
Xiêm in bóng tuyết sen lồng ngấn rêu.
Người về khuất kẻ trông theo,
110. Xa mù lần khoá, vắng teo giọt lầu.
Tới phòng nặng quở con hầu:
“Đi đâu mà để người đâu xông càn”,
Vân Hương trình gửi bên màn:
“Loè mây nào ngỡ khách man sấn vời”.
115. Thái cơ nghe nói đỡ lời:
“Tiệc vui ban tối khi chơi ngoại đường,
“Nghe rằng công tử họ Lương,
“Sang hầu, dạy ngụ tây sương mái ngoài.
“Mới rồi hẳn nghỉ chẳng sai,
120. “Hôm tăm tạm ngộ, biết ai đó mà!”
Hay tình, lẳng lặng nghe qua,
Dạy đòi Bích Nguyệt truyền ra trước lầu:
“Băng chừng ấy chẳng ai đâu,
“con cờ còn đấy xem mau đem về”.
125. Vâng lời băng lối đình khuya,
Viện lan trông suốt dãy hoè lâm dâm.
Bóng sân trăng hãy còn cầm,
Nỉ non van lá, âm thầm trách hoa.
Nhở nhơ giáng Nguyệt còn xa,
130. Lét chừng sinh đã dần dà đến ngay:
“Tiên nào ban nãy xuống đây?
“Quyến hồn khôn, vía dạy này đi đâu?
“Nàng Hồng dù chẳng giúp nhau,
“Mái tây chi để bóng lầu xế trăng?”
135. Nghe lời Bích nguyệt vùng vằng:
“Ví đâu ví lạ lùng chăng cho đời!
“Đào trên mây, hạnh trên trời,
“Nghĩ chi cho nát dạ người như tươm!
“Cắt phiền phó hẳn con gươm,
140. “Thôi đừng muộn đắp sầu đơm khó lòng,
Sinh rằng: “Động khoá nguồn phong”
“Dám đâu hỏi bế thăm dòng xôn xao!
“Nghĩ rằng khi trở gót vào,
“Một cười xem ý biết bao xa gần.
145. “Riêng ai tính vẩn toan vần,
“Người tiên khi bợn kiếp trần mà hay”.
Nguyệt rằng: “Mê mẩn xinh thay!
“Cười chăng cười nỗi thày lay dại càn.
“Tác mây đâu bợ gương Hàn,
150. “Trăng hoa phải sự nên bàn mà chơi”.
Vùng vằng miệng nói, chân dời,
Vườn khuya mặc đó, một người đứng trơ!
Ngân tà, trăng nhạt, sao thưa,
Dở dang lẽ ở, thẩn thơ lẽ về.
155. Đỉnh trầm thoang thoảng gió khuya,
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê trước đình.
Bỗng dưng vướng lấy tơ tình!
Này đồ vườn Lãng, này tranh non Bồng.
“Người sao ngọc đúc tuyết đông,
160. “Vẻ sao giá chuốt, gương trong, hỡi người!
“Chớ chê dạ khách tơi bời,
“Tượng sành âu cũng rụng rời chân tay!
“Xiêm huyền chưa dễ ai tày,
“Huyền kia đã lịch, bạch này lại thanh.
165. Chợ trời dù hẳn vô tình,
“Làm chi đem giống khuynh thành trêu ai?”
Tình dài dễ ngắn canh dài,
Tiếng điêu điểm trót, hiên cài bóng đông.
Thỉnh an vào trước nhà trong,
170. Phu nhân thấy khác hình dung vỗ về.
Rằng: “Đây quán hẹp chớ nề,
“Để cưu dạ khách lòng quê kẻo thì...
“Mặt sau sẵn thú viên trì,
“Liền song sang đó, dù khi đỡ buồn.
175. “Gọi là thủng thỉnh điền thôn,
“Hồ sơn cũng giúp cầm tôn khi rồi”.
Được lời sinh vội uốn lời:
“Dạo trăng ban tối, lạc vời bước sang.
“Bầu trời riêng chiếm phong quang,
180. “Cảnh nhường quyến khách, khách nhường quên xa.
“Ngại chăng động tiếng đàn bà,
“Thâm nghiêm chi để xông pha người ngoài”.
Dạy rằng: “Họ ấy chẳng ai,
“Đến chơi ngày vía, rồi mai cũng về”.
185. Được lời rón rén tỉ tê:
“Những ai hơi hướng, những bề gần xa?”
Mỉm cười rồi mới dạy qua:
“Đêm xưa chơi đó, họ nhà đôi chi.
“Một người bề gọi là dì,
190. “Thái cơ họ Mã trăng kỳ tròn khuyên.
“Ấy người dủ bức xiêm huyền,
“Với em đây, rắp kết duyên Việt, Hồ.
“Một người bề gọi là cô,
“Con quan Dương tướng, Tham đô tỉnh này.
195. “Giao Tiên đồn khắp châu đây,
“Tuổi chừng đôi tám, xuân nay chưa nhiều.
“Viện thơ, khung dệt, màn thêu,
“Chữ đề thiếp tuyết cầm treo phả đồng.
“Chiều thanh vẻ lịch càng nồng,
200. “thuyền quyên đương mặt, anh hùng nát gan”.
Lặng nghe riêng những bàng hoàng,
Trước bình đứng sững, bên bàn ngồi quên.
Rõ tình lại mở lời khuyên:
“Quyển vàng còn đó là duyên má đào.
205. “Cành hồng hãy gắng bay cao,
“Tự nhiên chỉ dắt, tơ trao lọ là!”
Tạ tình vừa xuống thềm hoa,
Diêu sinh vừa gặp rủ ra thư phòng.
Lưu liên khi lại huỳnh song,
210. Gương nga đã gác non đông nửa vừng.
Bếp tình riêng để bập bừng,
Vườn thơm thoát lại đè chừng lần ra.
Chiếc đình gió lọt sương pha,
Xạ phai trận rước, sen loà dấu in.
215. Tấc gang gác khoá lầu then,
Bồng sơn rằng cách muôn nghìn chẳng sai!
Chập chờn bóng nguyệt trêu ai!
Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước rèm?
Kêu sương tiếng nhạn lay thềm,
220. Mảnh thư đưa đến cung thiềm được không?
“Phụng cầu” dù lựa nên cung,
Ngón cầm biết gảy được lòng hay chăng?
Xe duyên hẳn phải xích thằng,
Thì xin xem sổ dưới trăng kẻo còn.
225. Lại song, sầu bể, sầu non,
Nào hay là khách Đào nguyên đã về.
Mình gieo vào chốn phòng the,
Lũ hoàn tấp nập mở thìa đẩy song.
Trướng bình kẻ cuốn người phong,
230. Kẻ bao gương giá, người xông hương màn.
Người đài nước, kẻ lò than,
Kẻ lồng đệm thuý, người dàn chiếu hoa,
Yên xong ai nấy trình qua:
“Trải xem cảnh trí Diêu gia nhường nào?
Hồi 2
235. Dạy rằng: “Đình, tạ, hồ, ao,
“Giặc, bình hai vẻ thanh tao một làn”.
Chơi vơi, Nguyệt cũng đua đàn:
“Cảnh thanh đã vậy, người càn mới dơ!
“Lấy cờ hôm nọ vâng ra,
240. “Vẩn vơ còn thấy nghỉ qua bên lầu.
“Lưng trời nói những đâu đâu,
“Những tơ nào thắm những cầu nào xanh.
“Những lăm chắp cánh liền cành,
“Đã mềm tóc uốn, lại quanh tơ vò.
245. “Cậy quanh mãi mãi buồn no,
“Khéo dơ thay những chuyện trò khúc nôi,
“Luống còn mỏi mệt đòi thôi,
“Khéo đâu nước chảy hoa trôi hững hờ”.
Lặng tai những tiếng đong đưa,
250. Nhủ rằng: “Người thế săm sưa đã đầy,
“Tự ta đóng nguyệt cài mây,
“Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà.
“Buông rèm ngăn cách bóng hoa,
“Tường đông bướm lại ong qua mặc lòng”.
255. Mấy lời để tạc năm trong,
Hương khuê nào biết văn phòng khát khao.
Từ nghe khách lại cung sao,
Bụi hồng dứt nẻo chiêm bao đi về.
Thẩn thơ mây sớm đèn khuya,
260. Trà gây giọng khát, hương khê mùi sầu.
Dò la Dương tướng dinh đâu,
Tụ hiên phường ấy cửa hầu thâm nghiêm.
Lầu canh chiêng lặng, điêu chìm,
Tịt mù tăm cá, bóng chim mấy trùng.
265. Liền tường bỗng thấy một thung,
Rêu sân lấm tấm, then song lỏng cài.
Sai đồng đến hỏi vườn ai,
Mới hay viễn khách nhà ngoài để không.
Nhởn nhơ hoa nở khói lồng,
270. Non Vu đành có nẻo thông từ rày.
Dương đài đành sẵn mưa mây,
Mà xem chúa Sở vui vầy giấc tiên.
Số thu ngân lạng kể nghìn,
Dốc trang chuốc lấy danh viên cho gần.
275. Sửa làm một chốn phòng văn,
Viện hoa bắc mở, đình xuân nam bày.
Thái hà lấp lánh đông tây,
Sớm đình hương, tối đình mây sẵn sàng.
Hàng khúc hạm, dãy hồi lan,
280. Cài hiên toả lá, rợp đường tản cây.
Một tay nhìn đặt ngoắm xoay,
Nơi chồng cặp sách, nơi bày cuốn thơ.
Nơi cầm, nơi rượu, nơi cờ,
Sẵn đình tả nhớ, khuây chờ đủ nơi.
285. Đào mềm lần đổi dương tươi,
Cư hoàn chưa vẹn, oanh dời đã sang.
Dập dìu mới rủ Diêu lang,
Cậy bề cậu cháu, định đường thông lân.
Rước mừng tự lễ chủ tân,
290. Đầu đuôi sinh đã vân vân rén chiềng;
“Chút trong buổi mới láng giềng,
“Gần soi may được nhờ riêng bóng thừa”
Dương công rằng: “Sự tình cờ,
“Cùng trong thanh khí, những ngờ là ai;
295. “Nguyên xưa chú với tôn đài,
“một rèm một án, dồi mài mấy thu,
“Từ khoa tân mão phân đồ,
“Kẻ mừng gặp bước, người lo trở nghề.
“Cửa Ngô cung kiếm giữ lề,
300. “Trạng đầu may cũng cắm về cửa viên.
“Bể quan khơi vượt cánh thuyền,
“Thổi đưa ra cũng sức trên trao dùng.
“Được rày công tử biết cùng,
“Đã trong khế nhị lại trong lân tình”.
305. Bôi bàn rộn rịp trù dinh,
Tiệc vầy rước tận sau đình Vọng ba.
Dạo theo quanh quất mấy toà,
Dủ dòng tơ liễu thướt tha phất đầu,
Ông vừa liếc lại đến sau rỉ lời:
315. “Trẻ nhà võ vẽ đề chơi,
“Vụng về chả bõ dạy cười làng thơ.
“Giai chương ước được mảnh tờ.
“Hoa tươi thêm vẻ là nhờ bút tươi”.
Dối quanh sinh hãy chọn lời,
320. Thị tỳ ông đã dục đòi truyền qua:
“Nẻo quanh viện sách còn xa,
“Buồng riêng sẵn giấy lấy và trương đây”.
Trên đình nghiên bút đủ bày,
Hầu đề sinh lại dừng tay nghĩ thầm:
325. “Nổi nênh chút nỗi tình thâm,
“Lá ngô man mác doành nhâm dập dềnh.
“Bạch, Tô sẵn mối duyên lành,
“Mượn câu cảnh, ngụ câu tình hoạ may”.
Ngón dao gió táp mưa bay,
330. Tựa thơ vịnh liễu lại bày một thiên.
Đệ trình ông những ban khen:
“Giá này lầu hạc đình liên cũng nhường.
“Phong tình hết tấc yêu đương,
“Lại truyền đem dán ngang tường một bên”.
335. Còn thừa hai mảnh hoa tiên,
Chắt chiu Sinh đã giấu liền biết đâu.
Hầu vui chén hãy kèo mau,
Tạ từ thôi mới giã nhau về nhà.
Đầy thềm vằng vặc gương nga,
340. Bóng cành vẽ vách, mùi hoa đan rèm.
Câu lam từ tỏ lối tìm,
Nhẫn nay chừng đã đầu thềm nửa sương.
Rằng: “Chừng một đoạn sông Tương,
“Người xa luống những mơ màng lòng xa.
345. “Bấy lâu đeo đẳng vì hoa,
“Nào hiên lãm thuý ắt là đâu đây.
“Thơ kia có thấu mà hay,
“Lại trăng kia với khách này tỏ nhau.
“Tiên huê còn đó chớ đâu,
350. “Phấn bình nhường thấu, hương lầu nhường bay.
“Mở phong chẳng nỡ rời tay,
“Người xa gần chút báu này cũng duyên.
“Người tiên tên đã đáng Tiên,
“Gặp tiên bỗng khuất vân thiên mấy trùng”.
355. Trước hiên nương bóng tà song,
Cảo thơ biếng giở, túi đồng để suông.
Giấc hồ nửa gối mơ màng,
Chiền đâu đã lọt tiếng chuông mái tường.
Trời mai gợn trắng, tuôn vàng,
360. Gió đâu sớm đã quấn nhang trước đình.
Tiên thơ trên vách rành rành,
Nhìn chơi nàng đã ghi tình bốn câu.
Vân Hương trình hỏi thơ đâu?
Dạy rằng: “Buổi trước con hầu nói qua:
365. “Khách đâu bên giậu chơi nhà,
“Mệnh đề truyền lấy tiên hoa vội vàng.
“Này xem dòng khoản ghi tường,
“Ngỡ là ai, lại là chàng Lương sinh.
“Trong thơ buộc bện lời tình,
370. “Mượn cây quyến quả mượn cành rủ huê.
“Tưởng đâu ngày một đê mê,
“Biết bao mưu chước đi về đây chi?”
Sổng mồm chiều Nguyệt mới kỳ,
Bước lên trình: “Ngẫm duyên gì chẳng sai.
375. “Song song một vách đôi bài,
“Giai nhân tài tử sánh vai khéo là”.
Quở rằng: “Ai nhủ ngươi mà?
“Đặt bày phong nguyệt, dèm pha cương thường,
“Mây quang leo lẻo lòng gương,
380. “Dễ soi đỉnh giáp doành tương sau này.
“Người đà hoa nguyệt chi đây,
“Ngán thay cho khách những say sưa tình”!
Rước Diêu lại đến thư phòng,
Lễ thường hồi bái mừng ông sang nhà.
385. Khiến xui thực đã ưa là,
Vườn vừa dọn chỉnh, khách đà sang chơi.
Đình Hương dìu dặt chén mời,
Những say vì nghĩa, những vui vì tình.
Chề chà ông mới hỏi sinh:
390. “Bấy lâu tên đã lọt bình đâu chưa?”
Dứt lời khúm núm trình thưa:
“Nợ thường chưa trả, duyên tơ còn dành”.
Khéo thay lời nói hữu tình,
Sàng đông rày mới là đành có nơi.
395. “Rằng: “Ta buổi trẻ theo đòi,
“Mênh mông bể thánh nào vơi phần nào.
“Sông Thù luống những khát khao,
“Rắp đem hàn mặc buộc vào biền mâu.
“May thay giải cấu duyên đâu!
400. Mượn tay vườn hãn mở lầu rừng nho.
“Đi về giảng sớm bàn trưa,
“Quyển vàng hoạ được giải cho ít nhiều”.
Thưa rằng: “Chút phận bọt bèo,
“Hậu sinh đã dám chơi trèo sao nên!
405. “Gẫm mình võ vẽ bút nghiên,
“Biết đâu kinh thánh truyện hiền là đâu?
“Vả nơi rốn bể cửa hầu,
“Ra vào vì chút thẳm sâu ngại ngùng”.
Thuận lời vui chén thung dung,
410. Rằng: “Trong khế nghị là trong một nhà.
“Đã gần chi có điều xa,
“Nhà ta coi vậy, lòng ta lệ gì?
“Tiện đây giáp vách liền vi,
“Cửa lầu mở khép dầu khi đi về.
415. “Rồi ra đôi khoá đôi bề,
“Đành ngăn khép đó, lọ nề nập chi”.
Vội mừng sợ lại sinh nghi,
Mặt nam sẵn thợ, tức thì mở ngay.
Thiên thai đành tỏ lối này,
420. Tiện đường Dương tướng dở say lại nhà.
Hồi 3
Trướng loan trò chuyện đàm hoà:
“Đã gương dù ngựa lại nhà trâm anh.
“Rồi đây gởi mối trao manh,
“Tuổi già được rể tài tình cũng hay”.
425. Duyên kia tơ đã trao tay!
Mà người khuê khổn những say vị gì.
Sớm nhồi còn đẵm hơi chi,
Thăm hoa đã gọi Hương tỳ vội sai.
Lá đầm lướt mướt sương mai,
430. Líu lo trên liễu một vài tiếng chim.
Dạo quanh lũng hỏi, thung tìm,
Cửa đâu trổ thấy thâm nghiêm một toà.
Lại xem, thuận lối dần dà,
Giàn vi, giá thược lần qua cẩm tường.
435. Lét chừng khói ngất bóng dương,
Nẻo xa thấy một người nhường quen quen.
Sinh vừa dạo gót trước hiên,
Vừa trông ngang lại, vừa nhìn rõ nhau.
Đài trang còn những đâu đâu,
440. Hãy đem phong bác con hầu thử xem.
Xa xa Hương vội lánh hiềm,
Sinh đà dạo trước êm êm sẽ bày:
“Cùng nhau chi nữa nhau đây,
“Dừng chân gạn một lời này chút nao.
445. “Bên cờ từ nhác vẻ sao,
“Trước trăm năm ngẫm duyên nào hay không?
“Bấy lâu đắp nhớ, đổi mong,
“Trót lòng đeo đẳng, trót công tìm tòi.
“Nghĩ cho nhỏ mọn thiệt thòi,
450. “Đài gương may hoạ rõ soi dấu bèo.
“Vườn thơm mành rủ tranh treo,
“Hay đâu tường có bướm liều vì hoa.
“Bóng kiều mong gửi thân la,
“Biết đem rìu búa để mà cậy ai?”
455. Thưa rằng: “Lời nói như chơi,
“Biết đâu đáy bể đầy vơi mà lường.
“Song le ai dám đột đường,
“Tiếc thay (cho?) cái dã tràng luống công”.
Gió đâu rụng tía rơi hồng,
460. Ngập ngừng lòng chạnh riêng lòng đòi khi.
Xiết bao mấy nỗi nằn nì,
Thảm oanh khúc rối, sầu chia giọt tràn.
Lành lòng thấy khách châu chan,
Xót chiều Hương lại thử bàn ướm chơi:
465. “Hiếm gì ngòi bảng, doành khơi,
“Lá hồng bỗng đến chi nơi nổi chìm!”
Sinh rằng: “Khiến cải xui kim,
“Là trong tiếng ứng hơi tìm biết đâu.
“Ước ao nguyền nặng thề sâu,
470. “Hoa đầy ổ, liễu đầy câu, sá nài.
“Cầu sương dặm tuyết chờ ai,
“Dịch xuân đành tỏ, tin mai những mừng;
“Hay đâu nước nhạt nhưng nhưng,
“Giấc hoa nỡ để chập chừng dở say.
475. “Dù chăng đoái chút nỗi này,
“Bên đào đành cũng như ngày chờ ai”.
Nghe lời Hương cũng êm tai,
Sợ nhà nể khách một hai ngần ngừ.
“Phép trong đâu chẳng e chừa,
480. “Nể người vâng sẽ thử dò để xem,
“Hoạ khi gió cuốn mây đem,
Tấm thành cho thấu đá mềm biết đâu.
“Ví mà cá lạnh đông câu,
“Phận ai là vậy thôi dầu vậy thôi”.
485. Chợt nghe sầu, chợt dở vui:
“Ơn này biết trả đến đời nào xong”.
Lặng nghe Hương cũng sượng sùng,
Vội qua lối cũ, thẳng giong về lầu.
Vắng tanh mới đệ hoa hầu,
490. Quở rằng: “Sao bỗng đi đâu chậm về?”
Tiện lời rón rén tỉ tê,
Dở bề soát sỉnh, dở bề mách mao:
“Trót vì lạc lối vườn nào,
“Sương gieo để chịu biết bao tội tình.
495. “Người sao khéo khéo là xinh,
“Nói sao dơ dáng dạng hình mới hay!
“Đong đưa não nuột chiều thay!
“Giấy kia dễ chép, trượng này khôn đo.
“Lẽ hằng gượng nhắn nhe cho,
500. “Chàng xui châu rã, tơ vò càng thương.
“Rẽ xem núi ngọc non vàng,
“Tinh thành một tấm, sắt gang trăm rèn.
“Ngày xưa nhớ cữ dưới đèn,
“Đẫy đà chắc giá, thanh niên hiếm tày.
505. “Bấy lâu tưởng võ trông gầy,
“Mười phần xuân độ còn nay nửa phần.
“Ấp cây một mực trần trần,
“Nặng tình đành nhẹ đến thân có ngày”.
Nghe thôi lẳng lặng canh chầy,
510. Sẽ khoan khoan mới giãi bày rỉ trao:
“Mảnh tiên từng thấy thơ nào,
“Ruộng tình dễ thấm nên hao bể lòng.
“Tiếc cho cửa tướng nhà dòng,
“Phong tao tài diệu rất cùng ai so.
515. “Nẻo lầu mượn lối trao cho,
“Thì tròn gương nguyệt, lọ mờ bóng mây.
“Là điều thuận miệng vắng đây,
“Mạch dừng bưng bít cho hay mới là”.
Chợt nghe truyền gọi tiểu thư,
520. Lánh sau Hương đã thừa cơ bảo chàng.
Bình mai đã lọt tin sương,
Rèm tương khác hãy mơ màng bàn mê:
“Thói quyền hổng hểnh, lả lê,
“Miệng hầu vắt vẻo đi về không tin.
525. “Vẽ lòng há chẳng nên thiên,
“Lại e giấu giếm mà phiền tiếng tăm”.
Những là lo vẩn nghĩ vần,
Thôi chờ bóng nguyệt thì nhầm tin hoa.
Ngàn non ngậm kín bóng tà,
530. Lá cây xào xạc, chiếc nha điểm sầu.
Giải là thấp thoáng bên lầu,
Phải Hương đó chắc, nhìn lâu rõ chừng.
Hỏi chào lơi lả tưng bừng:
“Động xuân ắt có tin mừng đêm nay”.
535. Hương rằng: “Dại dễ nhường nay,
“Sự trăm năm phải một ngày nên ru!
“Hãy coi vào số phong lưu,
“Thì nhân duyên biết là đâu chăng trời!
“Ừ là trót đã chịu lời!
540. “Thử xem con tạo chiều người hay không?
“Trăng kia dẫu có soi lòng,
“Đã đâu dối bướm, dại ong nhường này.
“Vụng hèn xin khước từ đây,
“Tìm đâu chốn khác gửi mây cho đành”
545. Thấy lời như gãy mối tình,
Sáng màu tô tỉnh dịu vành van lơn:
“Chi điều liễu tủi hoa hờn.
“Một hai đã cậy, muôn vàn chẳng quên”
Người lại các, kẻ về hiên,
550. Tình chung mấy đoạn, sầu riêng mấy phần.
Lầu trang vàng chặt rắc sân,
Đầu thu vừa gặp giữa tuần trăng thanh.
Rước trăng giục giạo quấn mành,
Tớ thầy thơ thẩn tựa quanh triện mồi.
555. Gọi Vân Hương sẽ rỉ lời:
“Bốn mùa cảnh, bốn mùa trời, xinh thay!
“Thu đâu chừng nửa tháng này,
“Lạ trăng, lạ nước, lạ mây, thực là...
“Tiếc thay lục ố vàng pha,
560. “Gốc dương trơ một cội già khói tan”.
Chực bên Nguyệt cũng thở than:
“Giục người phong cảnh năm tàn lại năm.
“Nhớ ngày nào liễu đã giâm,
“Le te bên vũng độ tầm ngang vai.
565. “Chợt đâu bóng cả cành dài,
“Đã sương, đã khói, đã vài năm nay.
“Xuân sang lục mới khoe mày,
“Thu về vàng đã ố tay lạ gì.
“Tưởng người lấy liễu mà suy,
570. “Người khi xuân cỗi, liễu khi thu cằn.
“Liễu kia thu lại còn xuân,
“Người kia đã dễ mấy lần xuân chăng”.
Đỡ lời Hương lại thưa rằng:
“Gió mây khôn xiết nói năng sự đời.
575. “Biết chăng hãy nói trăng chơi,
“Vẻ thanh soi khắp cõi người mấy thung.
“Người thời trướng trập, uyên trùng,
“Người thời cầm dạo loan chung chưa từng.
“Người thời tựa bóng xem vừng,
580. “Người e áo mảnh, người ngừng quê khơi.
“Người đương giấc bướm Dương đài,
“Giấc tàn nhường thấy hiên cài ngẩn ngơ.
“Cũng sầu song cũng vừa vừa,
“Riêng người gối chiếc tương tư là sầu.
585. “Thanh cao soi dễ thấu đâu,
“Nên soi đâu cũng một màu thanh cao.
“Làm người nên nghĩ với nao,
“Một năm một tuổi nỡ nào luống qua.
“Dù vui dù tẻ cũng là,
590. “Bóng đưa trăng mọc, trăng tà đợi ai”!
Đàn đâu réo rắt bên tai,
Lửa đâu chất chứa nhường khơi trận hằng.
Sầu đâu dở dói biếng rằng,
Nhủ Hoàn khép cửa, đẩy trăng trả trời.
595. Thủng tha loan lánh về đài.
Mặt nhồi lau sạch, mối cài rũ tung.
Buông màn nhẹ bước vào trong,
Gối tiên trằn trọc luống dong canh dài.
Bàn riêng những sự mới rồi:
600. “Mấy lời Hương, Nguyệt thực lời nói ngay.
“Lân la mười sáu thu nay,
“Tơ kia quấn, bóng kia xoay mấy mà?
“Xót thay cho kẻ vì ta,
“Liễu gầy trăng lạnh sa đà bấy lâu.
605. “Giá nào, nào dễ mấy đâu,
“Duyên nào, nào biết về sau nhường nào?”
Dập sầu nhịn suốt tàn sao,
Tiếng gà đã gọi lầu cao dậy nằm.
Trang thôi nhè nhẹ nưng cầm,
610. Bóng doành lặng ngắm, chiều đăm đăm chiều.
Hương đà lén trước phòng thêu,
Tình hôm nay hẳn vì điều hôm qua.
Gửi rằng: “Vườn mới thêm hoa,
“Êm cơn phải buổi hay là dạo chơi”
615. Thực lòng nàng cũng tin lời,
Một Hương theo gót vội dời sân ngô,
Chòm chòm sương điểm khói tô,
Đầu cây rắc phấn, mặt hồ lau gương.
Dần dà rén bước lần sang,
620. Cửa son bỗng nhác thấy chàng đến sau.
Tiếng vàng vội gọi con hầu,
Gót sen nhè nhẹ dạo mau về nhà.
Cố tình ép liễu nài hoa,
Lối về sinh đã rẽ qua theo đoàn.
625. Nước thu lóng lánh một làn,
Môi đào e ấp, vẻ lan dạn dày;
Định tình sinh mới giãi bày:
“Duyên chi may lại phen này gặp nhau.
“Tấm riêng đặng đột bấy lâu,
630. “Tiện lân phỏng thấu bên lầu chút chăng?
“Ngày xanh đã dễ đâu rằng,
“Luống thay cử gió tuần trăng hỡi người”.
Ngại ngùng e tiếng lệ hơi,
Gọi Hương mau bước liệu lời cho nao.
635. Rằng: “Nay sửa mũ dưới đào,
“Vả trong lễ cấm, phép nào chẳng kiêng”.
“Ngập ngừng sinh mới thưa chiềng:
“Lẽ chung đành vậy, tình riêng sao mà?
“Đeo đai trót một tiếng đà,
640. “Đài linh hổ có trăng già chứng lâm.
“Thề phai nguyền nhạt khôn cầm,
“Cũng liễu đầu bạc, dám lầm tuổi xanh”.
Nặng lời nỡ nhẹ làm thinh,
Rằng: “Trong cửa cửi phòng canh biết gì?”
645. “Vả trong nền lễ sân thi,
“Cùng nhau đôi lứa cũng tuỳ nơi xe.
“Rẽ đường hãy lánh cho về,
“Lẽ thường hẳn chẳng e nề chút ru?”
“Nể lời có lẽ cầm lâu,
650. Lánh ngang sinh lại theo sau gạn nài:
“Lời vàng ý ngọc dám sai,
“Lửa gần lại bảo cho bài nước xa.
“Tin kinh diệu vợi tin nhà,
“Thưa chừng, những sợ hoặc là sao chăng?
655. “Chút chi gắn bó gọi rằng,
“Cho đành mối gió tin trăng sau này”.
Tai nghe vội dạo gót giày,
Mắt đưa ai luống trông ngay tận lầu.
Hồi 4
Về song vò võ mày châu,
660. Một phen gặp gỡ, thêm sầu một phen.
Với hoa những ngại ngùng duyên,
Thôi hờn nụ thắm, thời ghen nhuỵ vàng.
Sóng tình sao khéo mênh mang,
Trúc mai sao khéo mơ màng chăng ai?
665. Ngại ngần khi lại trang đài,
Tấm riêng, riêng để chất cài một bên:
“Thảo nào yến mối, oanh tin,
“Thấy tình thực cũng đã nên là tình.
“Nhửng nhưng nước vốn xuôi doành,
670. “Hoa sao hoa khéo rập rềnh chào xuân.
“Lời đâu quyến luyến thanh tân,
“Rủ rê gió sở mây tần bởi ai.
“Nói chi phong vị lâu đài,
“Vả trong khách huống lữ hoài biết sao.
675. “Thà cho xong một bề nào,
“Chẳng thà cách trở lân giao nhường này”.
Non xuân trễ chút mái mây,
Phượng xo phiếm lựa, loan gầy bóng treo.
Ngẫm nên Hương đã biết chiều,
680. Trình: “Sao như thể có điều chi đây?”
Dạy rằng: “Hiu hắt hơi may,
“Chiều thu nhường cũng nên say chiều người”.
Mượn thu Hương lại uốn lời,
Tả nơi thu cảnh bàn nơi thu tình.
685. Đá đưa như gỡ tằm oanh,
Gạn lời nàng mới đinh ninh dạy cùng:
“Đã là thác dạ gởi lòng,
“Liệu xem! lọ phải gạn gùng làm chi.
“Người hay gỗ đá chi chi,
690. “Đã đành tình ấy còn suy nỗi này.
“Thói đời giọt nước làn mây,
“Đấu nào ao được vơi đầy mà tin.
“Lại khi đôi lứa kén duyên,
“Biết là đã hẳn như nguyền cho chưa...
695. Bấy giờ chẳng bõ bây giờ,
“Luống đây điều nghĩ, mà dơ trò cười”.
Hương rằng: “Thực cũng như lời,
“Thấy chàng ẩn trạng khác vời thường nhân.
“Nền thi lễ, nếp đai cân,
700. “Giá nào dẫu nhắc đồng cân cũng già.
“Nghĩ người lại ngắm vào ta,
“Nhân sinh đệ nhất thật là lứa đôi.
“Ngọc lành được giá thì thôi,
“Làm chi đợi đến những lời ong ve.
705. “Dù khi bạc mẫu, trầm tre
“Châu nên đấu, gấm nên xe cũng liều.
“Từ xưa tài sắc còn nhiều,
“Để gương ngẫm lại bao nhiêu đấy mà:
“Aải Vân oán điệu tỳ bà,
710. “Giấu giày non mã sương pha nên đồ.
“Buồm mây khói toả năm hồ,
“Lăm tăm bờ cỏ sông ô khắp đường.
“Tưởng nơi cung lạnh ngòi ngang,
“Phú Tương Như dễ mấy vàng chuốc nên.
715. “Sao bằng đôi lứa phỉ nguyền,
“Chữ tình thêm vẹn, chữ duyên càng nồng.
“Nghĩ lòng dù chẳng quyết lòng,
“Cắm sào đợi nước chờ trong được nào”
Dở lời chưa dạy rằng sao,
720. Tiểu hoàn đâu đã pha vào việc ngang.
Chắc tin Hương những trễ tràng,
Ngóng tin ai, những mơ màng chờ thăm.
Tiết thu vừa giữa đêm rằm,
Viện thơ họp thưởng sân cầm đua chơi.
725. Trước lơn riêng nặng một người,
Tờ duyên lần dở, chén mời để dưng.
Hoa tay trúc động đè chừng,
Nhác trông cửa tía, vội ngừng gác son.
Tiêu đâu rủ phượng véo von,
730. Một xoang như gợi nước non mấy niềm.
Phất phơ tơ liễu buông rèm,
Nửa sân lưu lệ bóng thiềm xế ngang.
Nói cười sang sảng gieo vàng,
Thảnh thơi với Nguyệt với Nhang trước đình.
735. Dạo ra đến trước tự tình:
“Gọi là được thoả bình sinh ít nhiều.
“May đây xin một hai điều,
“Đêm lành khéo lẽ sương gieo hẹn lành”
Tỏ chơi Nguyệt hãy đành hanh:
740. “Rằng đây chẳng phải là gành Mã đương.
“Liệu xin bảo trọng phải đường,
“Nặng lời trẻ mỏ, bằng nhường chẳng thông”
Nấu nung đâu sẵn lò lòng,
Chợt nghe thoạt đã đôi dòng nhường pha.
745. Nỗi niềm thỏ thẻ gần xa,
Một chiều càng một thiết tha một chiều.
“Nỡ vì một nỗi bấy nhiêu,
“Ngấn bào giọt ngọc ít nhiều thử coi.
“Thương ưa phải sự ép đòi,
750. “Lượng xuân đành quyết hẹp hòi chốc ru!
“Thẳm cao dám trách trăng thu,
“Trách chăng trách lẫn đường tu vụng về”.
Mấy lời năn nỉ tỉ tê,
Xót vì Hương cũng ủ ê khôn hàn.
755. Ngập ngừng ra trước khuyên van,
Rằng: “Trong tình ý thế gian hiếm tày.
“Vàng bền ví quyết chẳng lay,
“Không gươm mà cũng đang tay nỡ người.
“Khuôn duyên trộm nghĩ linh đời,
760. “Giẩy giun báu nước hương trời sánh nhau.
“Chung tình trước một ai đâu,
“Càng dan díu lắm, càng âu yếm nhiều.
“Chén tương rủ khách Lam kiều,
“Bữa huân nơi rước, cung tiêu chốn mời.
765. “Ấy trên tiên, nọ dưới người,
“Pho tình biết mấy mươi nơi còn truyền.
“Trong duyên gặp gỡ là duyên,
“Trọn tình vẹn vẻ đôi bên mới tình.
“Trong quyền mà chẳng dời kinh,
770. “Dám xin rộng chuẩn mảnh tình tôi con.
“Hội này người họp trăng tròn,
“Niềm son giải một chén son cùng thề.
“Một là giai tiết phòng khuê,
“Hai là mượn kẻ liệu bề mối manh.
775. “Đào non sớm nghĩ thơ lành,
“Vui vầy một hội nức danh muôn đời”.
Được lời sinh lại thêm tươi,
Đỡ lời Nguyệt cũng kíp lời gửi qua.
Nàng nghe ngần ngại nét hoa,
780. Đăm đăm lặng ngắm bóng nga biếng rằng.
Nguyệt, Hương biết ý dùng dằng,
Tiệc bày ghế sắp dăng dăng trước đình.
Trên yên bút giá hương bình,
Tiên hoa ngày trước để dành hai trương,
785. Tiên thề tay thảo một chương,
Trọn lời chép núi, đầy hàng tạc sông.
Chứng trên vằng vặc vừng trong,
Lại ghi Hương, Nguyệt trên giòng cuối trương
Triện thành nghi ngút tuôn nhang,
790. Mấy lời khấn nguyện mặc chàng trước sau.
Eép nài nể ý đôi hầu,
Vén xiêm ngồi xuống gật đầu vài phen.
Văn thề trao chịu hai tiên,
Kìa lòng vàng đá, nọ nguyền tóc tơ.
795. Yỷ hoa song sóng người thơ,
Bóng lồng chung vẻ, hương đưa lẫn mùi.
Cờ lòng nghe cũng láng lai,
Trong khi gắn bó ra chồi lần khân.
Nàng rằng: “Bồ liễu chút thân,
800. “Móc đường những lệ chúa xuân phải phiền.
“Trăm năm nhẹ một tấm nguyền,
“Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu.
“Thề lòng đợi bến Hà châu,
“Đợi đâu trên bộc trong dâu ru mà!
805. “Dám xin tính rộng toan xa,
“Bảng vàng treo đã, đuốc hoa vội gì”,
Một chiều thêm một nể vì,
“Lọ: mây ngồi, với: mưa đi, mới tình”.
Chuyện trò thêm gắn sắt đanh,
810. Dùi sương chợt mảng trên thành điểm năm.
Giục ai giọt lệ khôn cầm,
Rốn thêm căn vặn, lưu tâm mấy lời.
Sầu đâu cũ mới xui người,
Bên băng gác tía, bên dời song thưa.
815. Những đành cải bén kim ưa,
Máy thiêng đâu đã nhiệm lừa biết đâu.
Lương gia vào các bấy lâu,
Sáng soi gương đức, rộng lâu nền bình.
Vạc mai chán nếm tràng danh,
820. Rau thuần chạnh nhớ mùi canh ngọt ngào.
Làm chi một giấc lá hươu,
Ràng nhau đầu gạc ốc bâu khó lòng.
Dẫn nhàn gửi dưới bệ rồng,
Đền xuân yến mở, cửa đông tiệc này.
825. Vẻ vang rờ rỡ gấm ngày,
Ai ai chẳng muốn bạn bầy với tiên.
Có Lưu Lại bộ bạn hiền,
Là người bản huyện cũng xin viện lề
Dòng theo một cữ thuyền về,
830. Sớm đưa bến sỹ, hôm về sông dâu,
Pha phôi trăng mạn giò lèo,
Rộng ngâm vân thuỷ bơi chèo yên ba.
Khi vui thóc mách chuyện nhà,
Họ Lưu một gái, tên là Ngọc Khanh.
835. Tuần mười lẻ bảy xuân xanh,
Người trang trọng nết đoan trinh vẹn mười.
Rõ tin, Lương mượn chén mời:
“Đường quan anh cũng nhác đời như em.
“Vòng trần hẳn đã không thèm,
840. “Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chửa nguôi.
“Trộm toan kén lứa chọn đôi,
“Tấn Tần có lẽ với người phồn hoa.
“Thôi thì ta lại biết ta,
“Chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng?”
845. Cạn lời Lưu mới thưa rằng:
“Từ vào thi chất xem bằng Long môn.
“Một lời đã với nước non,
“Vâng xe mối chỉ cho tròn duyên tơ.
“Quản bao tuyết đợi, sương chờ,
850.“Xin đem dây sắn may nhờ bóng thung”.
Khiển tình mấy chén thung dung,
Việc hai nhà, để hai lòng định nên.
Dập dìu buồm nghĩa gió duyên,
Lòng tên thuyền cũng như tên chiều lòng.
855.Non xuân mới rõ làn trông,
Cờ bay ngọn gấm, xe lồng thức mây.
Giang đình đôi ngả cia tay,
Lương đài gióng ngựa ruổi ngay quê nhà.
Dập dìu cầm sắt xướng hoà,
860. Phu nhân đã giục tin ra rước chàng.
Tướng công dẫn sự dọc đường,
Gặp Lưu cao nghĩa, được nàng tốt đôi.
Nhà huyên thêm nỗi lòng vui,
Người băng đưa thiếp đã sai đệ trình.
865. Dự trao một lễ cho đành,
Lệ thường chẳng nỡ chờ sinh trễ ngày.
Sinh vừa vâng thấy tin bay,
Tạ từ cậu thị sắp bày qui trang.
Lại sang bái tạ đài Dương,
870. Tiễn đưa ông mới tỏ tường lòng riêng:
“Nỗi lòng luống những cấn quyền,
“Chút còn e lệ cho nên ngại ngùng.
“Lời quê hãy gửi Tôn ông,
“Bấy lâu trộm đã ơn lòng thầm yêu.
875. “Ngây thơ một chút yêu đào,
“Khuôn vàng cho lĩnh ít nhiều là may.”
Nghe lời như cởi niềm tây,
Tạ từ thôi lại dạo ngay sảnh đình.
Gặp Hương mới kể sự tình:
880. “Xin nhờ dì gió đệ trình trướng loan.
“Một mai vội gióng Dương quan,
“Diện từ xin giải niềm đan mấy lời”.
Chợt nghe chín khúc tơi bời,”
Thềm lan lặng đứng vội dời gót lan,
885. “Duyên ưa mai liễu một đoàn,
“Nay ai đã vội giở màn đình Cao.
Sinh rằng: “Chút nghĩa tương giao,
“Chưa cùng sum họp nỡ nào chia phôi.
“Dắt tơ nay mới vâng lời,
890. “Đành hay người định thời trời phải theo.
“Sớm khuya gác gấm buồng thêu,
“Ngọc vàng mình phải nưng niu lấy mình.
“Dập dìu lá thắm chim xanh,
“Quả mai chi để trên cành bảy ba.
895. “Tình xa bao quản người xa,
“Tương tri có thế mới là tương tri”.
Rằng: “Nay nam bắc phân kỳ,
“Đã đành trời nọ trăng kia mới lòng.
“Gió mây hãy gắng chí hồng,
900. “Trông mong cho bõ tấm lòng bấy nay”.
Mặt nhìn chẳng nỡ rời tay,
Non xa liễu đã tơ xoay bóng vàng.
Gửi tình nửa ngọn cành dương,
Hồn quê thơ thẩn như dường theo ai.
905. Tuyệt mù cây khuất bóng người,
Ngại ngần năm bước ra mười về hiên,
Thanh gươm cặp sách xuống thuyền,
Lưng khoan chất thảm, đầy then chứa sầu.
Song bồng mưa vẩy gió mau,
910. Trận nhàn chép nhớ, ngọn lau gảy buồn.
Dòng xuôi một giải nhường tuôn,
Đầu mui đã thấy hương thôn gần gần
Hồi 5
Vào hầu lạy trước đài xuân,
Hương đưa chén chuốc gấm nhuần tiệc cao.
915. Bấy lâu con học thế nào?
“Ngọc kinh nghe đã xôn xao mở trường.
“Nệ gì định tỉnh lễ thường,
“Làm cho thân hiển danh dương mới là”.
Phu nhân lại dạy chuyện nhà:
920. “Đại khoa nhân thể tiểu khoa cũng vừa”.
Nỗi Lưu nói kể sau xưa,
Tay trao cho nhận mấy tờ thiếp canh.
Nỗi mình lại ngán cho mình,
Trời sao sấm dậy, đất bình sầu xây.
925. Lòng thơ như dại như ngây,
Gửi qua thoắt đã trở giày về song.
“Thôi thôi lòng đã phụ lòng!
“Trăm năm bẻ một chữ đồng vì ai.
“Bẽ bàng trăng tối mưa mai,
930. “Sao duyên ngang ngửa cho người dở dang?
“Người xa đành lẽ chưa tường,
“Cửa thu luống chực tin sương góc trời.
“Dẫu vàng dẫu đá với người,
“Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân.
935. Năm canh cung nguyệt lựa dần,
Năm lần xa nhớ, năm lần thở than.
“Ông tơ khéo lẽ đa đoan,
“Ba sinh luống đợi Ngọc Hoàn còn lâu.
“Khuôn xanh kia mới hiểm sâu,
940. “Đã lừa nhau, lại tỏ nhau nữa mà”.
Ác vàng thấm thoát bay qua,
Phủ Dương sinh nhật một nhà đầy vui.
Chàng Diêu đệ lễ sang chơi,
Rượu đua cuộc thánh thơ bồi câu tiên.
945. Khi vui chạnh nhớ bạn hiền,
Thấy Diêu hầu dễ nên quên sự chàng,
Rằng: “Từ bẻ liễu lên đường,
“Gửi mai sao hãy trễ tràng đến nay”.
Việc Lưu, Diêu mới giãi bày:
950. “Yý vì hôn sự nên chầy chưa sang”.
Nàng vừa đứng trước rèm tương,
Bên tai một trận thê lương gió ào.
Nghe qua vội trở gót vào,
Sóng trôi lớp lớp nhường xao bể lòng.
955. “Vì ai lở đỉnh lấp giòng,
“Đã đành gối chiếc, chăn mong nhầm người”.
Cạn lời Hương mới lựa lời:
“Dù ai nỡ phụ chi ai luống chờ!
“Nhuỵ đào vẹn vẻ còn tơ,
960. “Ví ra bướm lọc ong lừa hiếm ai”.
Thoảng nghe những tiếng trái tai,
Thét rằng: “Giọng khéo dông dài gớm chăng!
“Vì ai quyến gió rủ trăng,
“Bây giờ còn dám đãi đằng với ai?
965. “Phận đàn bà, ngỡ là chơi,
“Một ngày tăm tiếng, muôn đời mắt tai.
“Mặc ai thề nhạt, nguyền phai,
“Tự ta xuân khoá mây cài với ta”.
Đỡ lời Nguyệt mới thưa qua:
970. “Tơ duyên cũng chửa hẳn là dứt xong,
“Duyên kia dù hẳn phụ lòng,
“Mặc ai xin hãy thung dung nghĩ nào”!
“Mưa tuôn ngấn ngọc như bào,
“Phận đành là thế dẫu sao cùng đành!
975. “Rồi đây bèo nước lênh đênh,
“Cành hoa vô chủ đã đành từ đây.
“Buồng riêng thức thức phô bày,
“Lòng nào vui những của này với ai.
“Ngón cầm dù lựa vào tai,
980. “Điệu cao đã vậy nào người tri âm?
“Túi thơ dù đúc nên ngâm,
“Phẩm đề ai kẻ đồng tâm với mình?
“Bút hoa dù vẽ nên tranh,
“Lấy ai mà nhận nét tình cho hay?
985. “Cuộc cờ ai kẻ ngang tay?
“Thấy cờ mà tưởng những ngày chơi đêm.
“Nào gương, nào chỉ, nào kim,
“Vì ai mà để chi thêm bận lòng.
“Sạch sanh phó trận lửa nồng,
990. “Tiên thề đành để ghi lòng kiếp sau”.
Bập bùng chưa nguội bếp sầu,
Nhện sa chợt mảng tin đâu trước mành.
Dương gia chuyển thụ thăng kinh,
Đề huề chuyển soạn thuỷ trình trẩy ra.
995. Nỗi mình thêm rộn nỗi nhà,
Khi xa, xa biết là xa mấy trùng.
Hành trang sắm sửa vừa xong,
Con thuyền chen chúc đưa giong cánh lèo.
Giang sơn tám bức sầu treo,
1000. Cảnh mai để chạnh, sắc chiều như xui.
Kìa đâu cát bẵng một doi,
Mấy chòm lếch đếch lôi thôi trận nhàn.
Kìa đâu mây tận chân ngàn,
Lưng đèo xao xác, hợp tan chợ chiều.
1005. Kìa đâu viễn phố quạnh hiu,
Chân trời thấp thoáng con chèo về khơi.
Kìa đâu bờ bến lôi thôi,
Ngư thôn mấy móc, mặt trời tà dương.
Kìa đâu nghi ngút khói sương,
1010. Chày khuya mấy tiếng, chuông vang bên chùa.
Kìa đâu nước lạnh trời thu,
Động đình phẳng lặng một hồ trăng in.
Kìa đâu ban tối đỗ thuyền,
Trắng bay hoa tuyết giang thiên một màu.
1015. Kìa đâu trúc lệ nhuộm thâu,
Tiêu tương lích chích mưa mau canh chầy.
Cảnh kia thêm bận lòng này,
Phượng thành sáng mở nào hay đã gần.
Cửa doanh liễu mới rước xuân,
1020. Biên thư đã thấy tấu văn bệ thiều.
Rợ Hồ lỗng thói con kiêu,
Ruổi mù bụi ngựa, trẩy theo ải nhàn.
Sân phong lựa mặt sai quan,
Lại sai Dương tướng giữ giàng việc biên.
1025. Hịch mau một mảnh sao truyền,
Đành chăm việc nước, phải quên việc nhà.
Hàn lâm sẵn có Tiền nha,
Với phu nhân vả cũng là đồng thân.
Hãy sang tạm trú cho gần,
1030. Đợi ngày dẹp giặc, xem chừng chẳng khơi.
Tiền nghe đón rước tận nơi,
Dọn lầu sửa chốn nghỉ ngơi thanh nhàn.
Chị em, cậu, cháu đoàn viên,
Đành lòng Dương mới gióng yên cõi ngoài.
1035. Một phương đóng vững thành dài,
Nuốt không Hồ yết sa loài khuyển dương,
Tình kiều tử, dạ phần hương,
Dù cay đắng cũng phận thường nghĩ nao.
Sầu kia kể đã là bao,
1040. Nỗi người chiếc bóng ra vào lại thương.
Sinh từ núm náu phần hương,
Trời thu ba cữ, doành Tương một ngày.
Bụi trông muôn hộc chất đầy,
Cánh nào bay đến ngỏ bày trước trang.
1045. Liệu cơ ra lạy tôn đường,
Tràng châu xin lại tìm sang cựu trình.
Được lời theo lối thuỷ hành,
Thẳng giong buồm lá thênh thênh xuôi giòng.
Sông nguyền, bể dặn trùng trùng,
1050. Phụ phàng nọ những thẹn thùng nước non.
Vườn riêng còn thú cầm tôn,
Hoàng diêu, Tử nguỵ vẫn còn chưa phai.
Cành trông cỗi ngắm chờ ai,
Đầy song tuyết điểm hoa mai trắng ngần.
1055. Lần sang thăm thú vườn gần,
Một vùng cỏ biếc mấy lần cửa son.
Lơ thơ cây cỗi cành non,
Rêu in cầu đá, tuyết mòn lối thơm.
Lầu thơ khói toả mây trùm,
1060. Chồi sai thưa bẻ, khóm sờm vắng via.
Biết ai hầu hỏi sự duyên,
Viên ông đã thấy trong miền rò ra.
Mon men thăm hỏi gần xa,
Mới tường mon mạch, nay đà phó kinh.
1065. Ngán chiều lả chả đôi doành,
Buồn nương bên triện, dạo quanh khắp toà.
Băn khoăn đến trước đình Ba,
Lương không yến đỗ, song tà nhện trăng.
Dẫu thơ vách hãy dăng dăng,
1070. Xã thơ cách mấy mươi từng người thơ.
Hiên cài lác đác sao thưa,
Sân rêu nọ chốn ngày xưa chén đồng.
Mày dương liễu mặt phù dung,
Ngắm hoa thêm nhắc tấm lòng sinh ly.
1075. Trăng thề vẫn đó tri tri,
Liễu chương đài biết nay đi đâu rồi.
Mừng xuân đào hãy ngậm cười,
Vẻ hồng trơ đó, mặt người nào đâu?
Khi sao son gác phấn lầu,
1080. Giờ sao tan tác mặc dầu khói sương.
Ấy ai dập lửa vùi hương,
Để ai nát đá phai vàng với ai?
Giận riêng trăm nỗi chất đầy,
Một hơi giá ngắt, hai tay lạnh đồng,
1085. May sao vừa gặp Viên công,
Rụng rời kíp gọi gia đồng thuốc thang.
Tỉnh ra về đến trú phường,
Giấc buồn chưa giã, mạch tương lại đầy.
Nỗi chàng kể đã chua cay,
1090. Nỗi nàng nào biết đến rày những sao.
Một mình một ngọn đèn hao,
Aáng mây biên ải, chiêm bao cho liền.
Chợt nghe Tiền cậu báo tin:
“Giặc Hồ nghiêng nước, vây miền ngọc quan.
1095. “Dương công luỹ mảnh quân đơn,
Miếu đường truyền hịch mưu toan tơi bời”.
Một nhà nghe nói rụng rời,
Sự mình kia với sự đời hay sao:
“Ví chăng làm kiếp má đào,
1100. “Thì ra tay thước quản bao cát lầm”.
Lầu khuya thẻ cạn canh trầm,
Thôi lai láng tưởng, lại thầm thì than.
Aỉ mây tin tức khơi ngàn,
Cửa bèo nênh nổi, nhà lan lật lừa.
1105. Xiết bao phận mỏng như tờ,
Nợ bình sinh, nỗi tóc tơ chưa đền.
Đêm đêm vừng nguyệt hoa đèn,
Mai gầy guộc vóc, liễu đen đủi mày.
Bể sầu càng vợi càng đầy,
1110. Đã đường kia lại nỗi này, mới ghê!
Đình Ba từ trở gót về,
Tiếng quyên đã gọi bóng hoè theo xuân.
Diêu sinh thăm hỏi ân cần,
Lấy kỳ thi cử, ép phần thuốc thang.
1115. Sinh rằng: “Duyên nghiệp dở dang,
“Thôi thời còn nghĩ chi đường lợi danh”.
Dám thưa: “Dạy thế sao đành,
“Sân lai sáu kỷ, song huỳnh mười thu.
“Lại gì cho trọng hơn ru?
1120. “Mà coi muôn dặm vân cù làm chơi.
“Gió bằng chín vạn bay khơi,
“Bất bình dẫu việc tày trời cũng xong”.
Nghe lời như dẹp cơn nồng,
Nhân kỳ phó cử quyết lòng tầm phương.
Hồi 6
1125. Sử kinh lại gắng việc thường,
Gấm hoa thêm cải, ngọc vàng thêm lau.
Sắc thi vang dậy đâu đâu,
Hồi trang sinh mới gióng câu dặm hồng.
Tôn sư án khảo vừa xong,
1130. Lọt tài sớm đã tỏ dòng tiền xanh.
Tản hoè vàng chất sây cành,
Trước sân vào gởi đăng trình ra thi.
Dạy rằng: “Mây gió gặp kỳ,
“Vin rồng nay hội nam nhi vẫy vùng.
1135. “Tiện cho Diêu đệ theo cùng,
“Hàn song phong nguyệt bõ công sách đèn.
“Bảng thu sớm sớm đề tên,
“Tiện đường sớm lại ruỗi liền hội xuân.
“Đi về lọ quản dưới chân,
1140. “Hãy cho ba tiệp trao lần nay mai”.
Lĩnh lời lạy trước sân Lai,
Diêu sinh đã hẹn cũng dời chân sang.
Túi “ôn”, tráp “lý” nhẹ nhàng,
“Đồ thư nửa mạn, phong quang một chèo.
1145. Đòi phen dốc sớm địch chiều,
Bóng ngư mặt nước, tiếng tiều chân mây.
Cảnh thanh trải mấy mà hay,
Gót phồn hoa thực nơi này Nam kinh.
Y kỳ nạp quyển đề danh,
1150. Trận thu cờ trống, luỹ thành một ai.
Mấy phen thử sức đua tài,
Tỉnh nguyên giật giải, tên bài Diệc thương.
Vòng năm Diêu cũng chen hàng,
Gió đưa cờ tiệp bờ sương nhặt truyền.
1155. Trải tuần yến ẩm lưu liên,
Yên kinh lại gióng con thuyền ruổi mau.
Vui này dễ bỏ sầu đâu,
Nỗi riêng riêng chạnh, đòi nau một mình!
Trông về khóm biếc chòm xanh,
1160. Núi gầy gò vóc, sông quanh quất lòng.
Phẩm đề biếng giở thư đồng,
Thành xuân đã rõ mây lồng thứ năm.
Tin xưa vốn đã toan thầm,
Mật sai kíp đã cho thăm việc nàng.
1165. Chỉ nghe phấp phỏng tin Dương,
Còn ai lưu lạc chưa tường biết nơi.
Mặt bèo chân sóng tuyệt vời,
Giận duyên xốc nổi, thương người bơ vơ.
Việc thi nên cũng hững hờ,
1170. Hết ngày Diêu nói tận từ mới nghe.
Nẩy tài nhả ngọc phun khuê,
Nhẹ nhàng vây sóng, lập loè cánh mây.
Đất bằng một tiếng sấm bay,
Hai sinh đều dự một ngày nguy khoa,
1175. Truyền lo Lương dự Thám hoa,
Diêu sinh Hoàng giáp cũng là Aá khôi.
Phấn vua, lộc nước, ân trời,
Muôn nghìn danh giá năm mười nhân duyên,
Đá đưa thêm gợi tấc phiền,
1180. Chén trăng xưa đã nặng nguyền sá đâu.
Vinh quy vừa định tuần sau,
Vừa nghe biên báo vội hầu quan sai.
Diêu ra quan chính cõi ngoài,
Lương vào Hàn uyển thảnh thơi ngọc đường.
1185. Vườn sau trúc thạch sẵn sàng,
Liền công thự đó, là tường Tiền nha.
Nàng từ tin ải truyền ra,
Nỗi mình, nỗi khách, biết là bao nhiêu
Trọn ngày khoá lặng song thêu,
1190. Nguyệt, Hương biết ý dập dìu ra chơi.
Trước hoa lần bóng hoa rơi,
Dưới trăng lần bóng, trăng soi người sầu.
Cảnh đâu dễ nhắc lòng đâu,
Vừa than tình mới, vừa sầu nỗi xưa:
1195. “Ngàn mây trắng bạc như tờ,
“Bóng đâu chênh chếch đã vừa ngang vai.
“Bờ sương dặm tuyết bao nài,
“Nào ai ấm lạnh, nào ai ngọt bùi.
“Tưởng người chén nguyệt thề bồi,
1200. “Phòng hương trộm tưởng đã người nào thôi!
“Ba xuân những chốn làm vui!
Dương thanh liễu lục những ai đó giờ”!
Cho hay thanh khí tương cờ,
Cách tường sinh cũng khi vừa dạo thanh,
1205. Buồn tanh trăng ngọn gió cành,
Dịp chân dạ khách, tiếng kềnh đêm thu.
Cảnh sầu như ghẹo người sầu,
Khi than thở bóng, khi châu chan mày.
“Nghĩ người mặt sóng chân mây,
1210. “Tiên thề đành để đến ngày tái sinh.
“Lỡ làng bèo nước lênh đênh,
“Ấy duyên phụ khách, hay mình phụ duyên.
“Nào ai bể dặn non nguyền,
“Lòng nào chuông vạn, ngựa nghìn với ai”,
1215. Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Nguyệt cài bên triện, hoa rơi trước rèm.
Cách hoa lạnh ngắt bóng thiềm,
Mây hồng tha thướt làn xiêm một người.
Cây quỳnh thánh thót sương rơi,
1220. Đào rầu rầu ủ, liễu hơi hơi gầy.
Rõ người ngày trước chẳng sai,
Nguyệt, Hương cũng đến chi đây lạ đời.
Những là vắng mặt khuất lời,
Non bồng xem ngỡ mấy mươi mươi trùng.
1225. Tường hoa quanh quất mấy vòng,
Bên hoa dường có nẻo thông cuối tường.
Hài văn lần bước bước sang,
Cách tường văng vẳng tiếng vàng xa đưa.
Tưởng bây giờ là bao giờ?
1230. Song song đôi mặt còn ngờ chiêm bao.
“Bấy lâu mưa khoá gió rào,
“Ngoài muôn nghìn dặm biết bao nhiêu tình.
“Biết đâu hương lửa ba sinh,
“Còn trăng còn gió còn dành duyên ta.
1235. Dịp đàn đã lỡ lại hoà,
“Mới là tơ vận, mới là nguyệt xoay”.
Nàng nghe giọt tủi thêm đầy,
Cạn lời lại giải niềm tây mọi lời.
Rằng vâng mừng trộm cho người,
1240. “Đã duyên đằm thắm, lại vời giàu sang,
“Tiếc thay sương tuyết cũ càng,
“Lối duyên ai nghĩ tự chàng rắc gai.
“Thề hoa vì tiếng hơi hơi,
“Vẫn ghi lòng, kẻo thẹn lời với hoa.
1245. “Soi người còn đó trăng già,
“Ai ngờ vàng đá, xảy ra cát lầm.
“Duyên đâu nữa để mà cầm!
“Nhện vương lại mấy phen lầm nữa đây.
“Bấy lâu chút mảnh riêng tây,
1250. “Aái ân này đến đêm này là xong.
“Tiên thề dù hãi chút lòng,
“Trên mồ một chén, rượu trong cũng là.
“thói thường ấm lạnh thế mà,
“Trách ai rẻ rúng cho ta sượng sùng.
1225. “Giãi lòng với mảnh trăng trong,
“Tạ lòng vâng đã biết lòng thế thôi”.
Trước lan so bóng ngán lời,
Trăng mờ gương lạnh, dế rời khúc ngâm.
Gió thương mây thảm âm thầm,
1260. Dần dần ngọn hạnh như đầm hạt mưa.
“Chủ trương kia bởi ông tơ,
“Nào ai gió lật trăng lừa với ai!
“Mảnh gương ai bẻ làm hai,
“Biết đâu mà được giãi bày duyên do.
1265. “Mảnh son dầu được giãi cho,
“Thí cam há quản tươi khô đâu mà.
“Kể từ doanh liễu dời xa,
“Cửa Lưu khi ép, đình Ba khi tìm.
“Bắc nam dặm dứt đường chim,
1270. “Vì ai bèo nổi mây chìm bấy lâu!
“Nắm xương mai, sá nghĩ đâu,
“Nghĩ chăng, những nghĩ lầm nhau tại mình.
“Hay đâu cơ hội còn dành,
“Gác Đằng lại nhủ gió thanh đem đường.
1275. “Buổi này họp mặt tròn gương,
“Mới hay còn có lửa hương kiếp này.
“Nhân sao nương náu chi đây,
“Những sao nông nỗi bấy nay dạy cùng”.
Càng nghe càng một não nùng,
1280. Ai hay ai cũng còn lòng chưa quên.
“Tình kia nào phụ chi duyên,
“Gió giun mây giẩy cho nên cớ nào!
“Sự mình kể hết tiêu hao,
“Đã đành chiếc bách sóng đào lênh đênh.
1285. “Thương ôi muôn dặm biên thành,
“Xa xôi nào thấu dữ lành tin hơi.
“Xót lời nên mới ngỏ lời,
“Gặp nhau cùng khách quê người biết sao!”
Một cơn gió giật, mưa dào,
1290. Lẽ này người quyết dạ nào đinh ninh.
“Bụi Hồ quét sạch sành sanh,
“ơn trên sau nữa nghĩa mình trả xuôi.
“Hẳn dù lầm lỡ lứa đôi,
“Trót thề để chút đền bồi cũng xong.
1295. “Hoạ khi trời cũng chiều lòng,
“Một chuông vàng một chỉ hồng cũng hay.
“Bọc da dù đến thân này,
“Cũng đành tỏ chút tình ngay với người.
“Kiếp này đã dở dang rồi,
1300. “Sá chi mà có tiếc đời làm chi!
“Thôi thời thôi có nghĩ gì,
“Thiệt mình mà trả được nghì cũng nên”.
Tử sinh quyết một mảnh nguyền,
Cành than ngọn thở dường quên bóng trời.
1305. Giục khuya hoàn chợt gửi lời,
Hiểu trang lầu nọ tiếng người đã đông.
Biệt ly ai vẽ nên lòng,
Càng nhau giọt tủi, càng nồng tấm thương.
Kẻ về, người lại sảnh đường,
1310. Liền tay chép biểu, tan sương lên chầu.
Lãm qua chuẩn doãn lời tâu,
Cờ sai gươm hộp mặc dầu tiện nghi.
Lệnh trao ruổi phát tức thì,
Tinh binh mười vạn, thuộc tuỳ trăm viên.
1315. Bệ từ vâng chỉ đặc truyền,
Ầm ầm ngựa gác xe chen khởi hành.
Mịt mù bãi cát đồi tranh,
Cùng nhau khi nặng vì tình quản bao.
Aải xa mấy trận binh đao,
1320. Truy quân quá đất lầm vào thành không.
Súng đâu dậy tiếng đùng đùng,
Bốn bề giáp đánh ba vòng bọc quanh.
Một hai tin lũ bại binh,
Đồn rằng Lương đã liều mình trong quân.
1325. Miếu đường rốt lẽ xử phân,
Hành biên lại khiến trọng thần chỉ huy.
Tiện nghi các việc biên thuỳ,
Vận lương, Diêu cũng tức thì trẩy ra.
Mới hay mợ trú Tiền nha,
1330. Vấn an tiện thể cáo qua lên đường.
Việc biên nói chuyện tin Lương,
Chực sau, Hương đã tỏ tường tai nghe.
Liền vào gửi trước phòng khuê,
Nghe tin nàng những e nề đòi cơn.
1335. Vật mình khóc lóc thở than,
Quyết ngay vào sá lời can lẽ nài,
“Vì ai cho luỵ đến ai,
“Thà liều mạng bạc, kẻo sai chữ đồng”.
Cháo cơm quyết chẳng bợn lòng,
1340. Nguyệt đà gạn lẽ riêng chung chung rầm rì.
Trình rằng: “Thôi đã vậy thì,
“Dẫu liều, đâu nữa ích gì đây chăng?
“Tình kia bể núi thực rằng,
“Tình này sao lại xem bằng hiếu kia.
1345. “Gìn lòng ngọc tạc vàng ghi,
“Hiếu tình cân lại nhắc đi cho tuyền”.
Chấp nê nàng đã đâu tin,
Gỡ dần, Hương lại đứng bên rén bày:
“Đào kia đành trả mận này,
1350. “Có chăng đợi chút một giây ông về.
“Cho phu nhân chút hả hê,
“Vẹn trong lúc ấy chi hề dám ngăn”.
Êm lời nàng cũng dã dần,
Ngày giờ núm náu, đêm tuần khói hương.
1355. Nghe tin chẳng xiết nỗi nàng,
Dặm xa lại nỗi Đài Lương ở nhà.
Vừa mừng cá nhảy đợt ba,
Lại thêm chinh tiễu sa đà hành biên.
Sau nghe những sự ngoa truyền,
1360. Xót lòng luống những xây phiền đắp thương.
Thực hư ai biện cho tường,
Lễ chiêu tuần điện lệ thường thiếu đâu.
Bỗng dưng mua não chuốc sầu mà chơi.
1365. Tiếng oan dậy dậy đất lở trời,
Tin đưa Lưu cũng rã rơi tâm thần.
Ngọc Khanh xiết nỗi ngại ngần,
Đổi màu xiêm trắng, kém phân cơm vàng.
Xót vì, chúng cũng khuyên nàng:
1370. “Dây đàn đứt nối là thường, nghĩ sao?
Thấy lời oanh yến lao xao,
Càng chan giọt thắm, càng bào lòng son.
Rằng: “Cương thường nặng núi non,
“Hãy còn trời đất, hãy còn di luân.
1375. “Vẻ chi một mảnh hồng quần,
“Chủ hoa đành đã đông quân đấy rồi.
“Thôi thôi đã vậy thì thôi,
“Cũng liều má phấn, cho rồi ngày xanh.
“Luân thường quyết gánh lấy mình,
1380. “Treo gương trinh bạch rành rành cho coi.
“Mảnh bao dày mỏng thói đời,
“Đợi tuần ráo cỏ chê cười như không.
“Dẫu rằng mòn núi cạn sông,
“Gương này quyết chẳng soi chung với người”.
1385. Lưỡi oanh khéo uốn ra lời,
Gớm thay cái mặt con người vô lương.
Mấy lời tạc đá ghi vàng,
Mối manh ai dám dọc đường nữa đâu.
Duyên kia thôi vậy cũng dầu,
1390. Nợ kia, ai lại làm rầu cho ai.
Ngày xuân lo những thiệt thòi,
Phu nhân vội đã toan bài ép duyên.
Lễ đưa truyền lại dẫn điền,
Tước bình thử mở xem tên ai vào.
1395. Họ Lam có một người nào,
Nghe tin sai mối lại trao chỉ hồng.
Một lời gắn bó vừa xong,
Biết con đã hẳn như lòng cho chưa.
Đòi nàng khuyên nhủ sau xưa,
1400. Rén quì, thoắt đã tuôn mưa đôi hàng.
Ngập ngừng nàng mới gửi tường:
“Yếu thơ bồ liễu, lỡ làng tóc tơ.
“Phận sao, phận bạc như tờ,
“Nợ sinh thành biết bao giờ trả xong.
1405. “Nâng khăn trót đã long đong.
“Còn toan tiếc mảnh má hồng nữa ru.
“Bên đường, nấm cỏ dầu dầu,
“Mặt nào quên não, khuây sầu với ai.
“Dẫu sao cũng một thân người,
1410. “Dong cho chiếc gối trọn đời là cam”.
Lời ngay dễ trái dạ tham,
Đem lời nửa mặt coi làm trăm năm.
Chước nên mụ những mừng thầm,
Lại đem trời bể mà cầm giầu sang.
1415. Uốn mềm hết tấc khoe khoang,
Trái tai nàng mới kể tường gần xa:
“Nói chi những sự người ta,
“Nghĩ mình nên chửa hay là chửa nên?
“Chữ trinh là phận thuyền quyên,
1420. “Ôm cầm ấy, lại qua thuyền nào ru!
“Nỗi mình, riêng những thẹn thò,
“Lại mang lấy tiếng pha trò mà chơi”.
Phu nhân nghe hết mọi lời,
Dạy rằng: “Khuê các sao hay chuyện ngoài.
1425. “Duyên này chẳng được bàn dai,
“Nhẹ đem vàng đá mà coi làm thường”.
Hồi 7 (Kết)
Thiếp canh truyền hãy phó sang,
“Được lời gửi truớc đài trang bước vào.
“Trăng già xe vẩn hay sao,
1430. “Tơ kia lựa với mối nào khéo sinh?
“Dựng gây dám nghĩ sinh thành,
“Biết thân mình, biết phận mình thế thôi.
“Hiếu trinh riêng những gồm đôi,
“Ơn nhà hãy trước, nghĩa người thì sau.
1435. “Phận mà ra vậy cũng dầu,
“Nghĩ người đáy giếng thang lầu chẳng nhưng.
“U minh đôi ngả khơi chừng,
“Một niềm sắt đá biết rằng thấu không?
“Kiếp này đã lỏng giải đồng,
1440. “Mảnh duyên gắn bó còn hòng kiếp sau”.
Nỗi riêng càng nghĩ càng đau,
Càng hờn non nước, càng rầu gió trăng.
Nghĩ đi nghĩ lại ngập ngừng,
Ngọc xuôi đồ sắm, hương lừng mã thay.
1445. Lầu khuya vắng vẻ ai hay,
Lần nghe văng vẳng canh chầy điểm ba.
Vườn sau rén ngõ then hoa,
Đè chừng sông cái ruổi pha một mình.
Khóc than ri rỉ cuối ghềnh,
1450. Giãi lòng với nước, bày tình với trăng
“Tiếc đời chi nữa cũng rằng,
“Dầu mà có thác cầm bằng không sinh.
“Há rằng chuốc tiếng mua danh,
“Sao cho phải phận sự mình thì cam.
1455. “Trông vời trời bể mênh mang,
“Đem thân băng tuyết gửi hàm giao long”.
Bất tình chi bấy hoá công,
Cho người lấy mảnh má hồng làm chi?
Người hạnh nghị, khách dung nghi,
1460. Làm cho trâm gãy gương lìa mới thôi.
Mênh mang bể khổ sống trôi,
Biết rằng phúc thiện có trời nữa không?
Có quan Đề học họ Long,
Hồi kinh vừa gặp thuận giòng chạy qua.
1465. Tiếng người lanh lảnh nghe xa,
Kíp truyền thuỷ thủ bỏ chà vớt xem.
Trước thuyền lướt mướt làn xiêm,
Gạn tường, mới giải mọi niềm sâu nông.
Thung dung quan mới ướm lòng,
1470. Khen rằng: “Tuyết sạch, giá trong thực là.
“Tiếc thay trong ngọc trắng ngà,
“Nỡ hoài chi để trôi hoa, giạt bèo.
“Rừng thuyền cõi tĩnh là nhiều,
“Sạch mình chi lọ là liều đến ai.
“Đem mình mà trả nghĩa người,
“Để công chín chữ thiệt thòi về sau.
“May đây bèo nước gặp nhau,
“Thôi thì hợp phố cho châu lại về”.
Lặng nghe giọt ngọc đầm đìa,
Lại thôi mới kể tỉ tê sự mình:
“Trẻ thơ đội đức sinh thành,
“Sớm khuya ai dễ dứt tình được đâu.
“Ông tơ lật lọng lừa nhau,
“Cực thân nên phải ngậm sầu bước ra.
“Gốc phần dù lại dạo qua,
“Cành vin chẳng kẻo bẻ hoa tay người.
“Lại trơ mặt với người đời,
“Thà liều sóng bạc cho rồi ngày xanh.
“Muôn vàn tạ chút hậu tình,
“Ơn này may có lai sinh là còn.
“Rồi đây đáy vực ngọn nguồn,
“Xin cho bụng cá lại chôn mày ngài.
Yêu vì nết trọng vì người,
Phu nhân lại dạy đến lời đa mang:
“Thân gìa vì chút muộn màng,
“Mới hay máy Tạo tuần hoàn dành cho.
“Trăm năm dan díu nghĩa vò,
“Mai sau trông cậy già nua được dành.
“Rồi ra lá kệ câu kinh,
1500. “Mặc tiêu sái đó cho thanh thả đời”.
Ơn lòng dám lĩnh lược lời,
Tạ từ thôi thoắt thuyền xuôi bến nào.
Nhà Lưu kinh hãi xiết bao,
Mơ màng đón hỏi, xôn xao sai tìm.
1505. Đầu gành cuối bãi lần xem,
Khác gì đáy bể mò kim hững hờ.
Mối sầu đòi đoạn như tơ,
Nguồn cơn nghĩ lại sau xưa tại mình:
“Quá thương chút phận lênh đênh,
1510. “Nghìn thu để chịu bạc tình với con.
“Máy duyên nghĩ đã vào khuôn,
“Toan này chỉ thắm cho tròn tuổi xanh.
“Ai mà xem nghĩa hơn mình,
“Nỗi nênh bèo bọt, tan tành cải kim.
1515. “Đã đành mặt nước nổi chìm,
“Biết đâu tăm cá bóng chim bây giờ”.
Nàng đành được chốn nương nhờ,
Khéo là khóc vẩn, thương vơ nực cười.
Bến mê ngán ngẩm sự đời,
1520. Cái vòng con tạo, khéo chơi lững lờ.
Người còn đôi mặt sờ sờ,
Bên mê Thuỷ quốc, bên ngờ Vân Hương.
Vàng thau ngọc đá mơ màng,
Làm cho ố thắm, phai vàng thế thôi.
1525. Mấy thu tên đá bời bời,
Biết đâu sinh hãy trong vây giữ gìn.
Vỗ về lẽ khích lời khuyên,
Đắp cao thành nghĩa, chống bền rào trung.
Hãm lương, Hồ những để rông,
1530. Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu.
Dằng dai bạn duật bao lâu,
Bóng ô hè giục sang thâu bấy chầy.
Diêu từ ruổi chốn ải mây,
Tin Lương biết hãy trong vây đã mừng.
1535. Hiềm vì thống tướng non lưng,
Đóng quân kín luỹ cầm chừng chẳng sai.
Lĩnh quân Diêu mới quyết bài,
“Đặc truyền” tức khắc hàm mai tiềm hành.
Đêm khuya lét thấy binh tình,
1540. Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.
Phá kiêu nghĩ cũng dễ dàng,
Đóng doanh, kíp thảo hai trương một bài.
Hẹn cho giờ sửu đêm mai,
Giấu cờ hiệu súng trong ngoài giáp công.
1545. Lên nơi cao phụ đứng trông,
Mũi tên thuận gió một phong bắn vào.
Lương vừa khuya tựa trướng sao,
Thấy quân bẩm được thư nào trình xem.
Phong thư vẹn vẽ còn in,
1550. Mở xem thực dấu chữ em rõ mười.
Suốt canh ngẫm nghĩ đòi thôi,
Mấy tên chiến tướng cũng đòi vào ngay.
Chư quân trông ngóng lâu nay,
Biết mưu, mài cánh day tay đợi truyền.
1555. Luỹ Dương gần cũng thông tin,
Hội binh một khắc giải liền hai vây. Khác gì hùm cũi ra ngoài,
Ấy là thoát tội đoạn rồi lập công.
Thừa cơ lò lửa mũi lông,
1560. Cúc kềnh lớp lớp, bụi hồng lưng lưng.
Thanh bình một biểu tâu dâng,
Thảnh thơi yên khấu chân nưng khải hoàn.
Gia thư nhẹ ruổi chân nhàn,
Tin lành sớm đã lọt màn Tiền nha.
1565. Vân Hương vào trước trình qua,
Nỗi thân, nỗi nghĩa như hoa nở lòng.
Gánh sầu cất nhẹ như không,
Càng xem tin báo, càng mong độ về.
Thương canh lần dịch dóng khuya,
1570. Rõ tường bản đạo kéo về kinh đô.
Rồng mây một hội nghìn thu,
Gác Đường vẽ mặt, yến Chu thoả lòng.
Người tài lược, kẻ tinh trung,
So vào công tải đều phong liệt hầu.
1575. Lại cho thế tập về sau,
Rành rành khoán núi, làu làu thư sông.
Móc mưa nhuần gội chập chùng,
Bể sôi, chợ họp người trong sảnh đường.
Rước mừng tân hữu rõ ràng,
1580. Có Lưu công tử anh nàng Ngọc Khanh.
Mới vâng ấm bổ phó kinh,
Đến mừng nhân kể ngọn ngành sự em.
Dẫu khi vui cũng chạnh niềm,
Chửa cam tình nọ, lại thêm nghĩa này:
1585. “Lửa hương nào đã chi đây,
“Mà liều cung nước làn mây hỡi người!
“Khối tình mang nặng nghìn đời,
“Đỉnh chung hầu dễ ăn ngồi được đâu.
Tiếc hoa ngần ngại nét sầu,
1590. Vừa khi Dương tướng thôi chầu vào chơi.
“Việc gì dường khác vẻ vui?”
Thấy lời sinh mới kể lời duyên do.
Thương tình mà ngậm ngùi cho,
Rằng: “Danh tiết ấy thơm tho ai bì.
1595. “Sao không tâu đến đan trì,
“Hoạ là tinh biểu chút gì trả nhau”.
Nghe lời vội thảo bản tâu,
Vào trong tiện điện buổi sau tiến trình.
Gương trời soi rõ mảnh tình,
1600. Vẽ lòng lá sắc, tạc danh biển vàng.
Khi thân nghị đạo cương thường,
Thung dung lại phán hỏi Dương sự nhà.
Thềm phong khúm núm tâu qua:
“Hiếm hoi một gái tuần đà thèm hai.
1605. “Những là giong ruổi cõi ngoài,
“Phòng hương nên hãy còn cài cửa thoi”.
Năm mây chiếu dụ rạch ròi,
Giao Tiên truyền kíp sánh đôi cùng chàng.
Tạ ơn cùng xuống điện vàng,
1610. Vội mừng nào đã kịp đường tính xa.
Về dinh ngẫm nghĩ việc nhà:
“Đành người có nghĩa, sao ta vô tình.
“Bến Tương việc hãy rành rành,
“Nào đà kết cỏ, ngậm vành chi đâu.
1615. “Vì ai cho thiệt thòi nhau,
“Ấy ai dứt được mối sầu cho đang,
“Chưa cầm sắt, cũng tao khang,
“Nỗi dây thế chẳng vội vàng lắm ru.
“Mai sau chín suối thấy nhau,
1620. “Cậy ai đổi được mặt đâu với người,
“Duyên kia trót đã nặng lời,
“Kíp chầy trong mấy thu trời quản đâu”.
Nghĩ duyên càng gảy tơ sầu,
Nghĩ mình, mình lại thêm đau đớn mình.
1625. Sang chơi vừa gặp Diêu sinh,
Thở than mới kể sự tình khúc nôi:
“Thôi thôi anh đã lầm rồi,
“Chấp kinh dường ấy ra hơi trần trần.
“Tình phu phụ, nghĩa quân thân,
1630. “Trong tam cương ấy, xem phần nào hơn?
“Tôi còn chút phận thờn bơn,
“Xe duyên là mấy, đội ơn cao dày.
“Băn khoăn xuân cỗi, huyên gầy,
“Mảnh nguyền hữu thất đến rày chửa nguôi.
1635. Mặc người tựa cửa hôm mai,
“Cầm lòng vì lánh một người thế ru?
“Sợ khi đương bể mà dâu,
“Hiếu tình lại dở dang nhau mặc lòng.
“Nghĩa kia đành tạc non sông,
1640. “Biển vàng may thế chữ đồng cũng cân.
“Dù chưa cắt hết tơ trần,
“Đành cho lập miếu phong thần về sau.
“Ấy lời tâm phúc cùng nhau,
“Tính sao cho được trước sau vẹn nghì”.
1645. Tưng bừng sắm sửa lễ nghi”.
Đào phen xanh chổi, hoa kỳ thắm sây.
Rõ ràng một cuộc vui vầy,
Đủ lề nạp thái, định ngày nghênh hôn.
Đuốc hoa lồng bóng trăng tròn,
1650. Tình riêng vẹn cả vào khuông xướng tuỳ.
Trai tài gái sắc ai bì,
“Doanh châu” ấy khách, “Dao trì” nọ tiên.
Đã người mới, lại người quen,
Tiên hoa chép chữ lương duyên đến già.
1655. Gió đưa lời, cánh bay xa,
Vừa Long Đề học thuyền đà tới kinh.
Rõ nghe hết thảy các tình,
Bài sai lại thấy biển tinh chữ bài.
Đòi nàng ngỏ dạy trước đài,
1660. Cùng làm một sớ đến mai lên chầu.
Nàng nghe ren rén cúi đầu:
“Bọt bèo dám động cao sâu thêm nhàm.
“Rủi may theo phận là cam,
“Đã đành duyên ấy lại tham nỗi nào.
1665. “Vả trên chín bệ thẳm cao,
“Dễ đâu mà tỏ âm hao cho mình.
“Sao bằng mình sạch lấy mình,
“Mặc ai nhạt nghĩa, mặn tình nghĩ chi”.
Cạn lời ông mới gạt đi,
1670. Rằng: “Như bài ấy, sắc kia phụ gì.
“Ví dù bội chốn kết nghì,
“Là vâng chỉ ngọc dám ghì lòng đanh.
“Ví sưng sưng quyết lấy mình,
“Bóng đâu quê cũ phỏng đành đấy chăng?
1675. “Ngẫm cơ ghềnh Thái các Đằng,
“Hay đâu là chẳng xích thằng sẵn xe”.
Dứt lời bần bật lặng nghe,
Tạ rồi liền dạo gót về hiên sau.
Tan canh vừa buổi ban chầu,
1680. Sớ văn Long đã quì tâu sân đền.
Khen rằng: “Này thực thiên duyên,
“Ngọc Khanh đọ với Ngọc Liên chi nhường”
Đòi Lưu công tử xem tường,
Chân tơ, kẽ tóc rõ ràng chăng nhe!
1685. Ông tơ khoảnh khách mới kỳ!
Mượn ơn mưa móc, kết nghì trúc mai.
Cửa Lương duyên lại sánh đôi,
Dồi dào tình trước, đền bồi nghĩa sau.
Cũng ban nhất phẩm như nhau,
1690. Khuê môn cho dệt mối đầu chính phong,
Ngửa trông ơn sóng trùng trùng,
Hai bên khấu tạ sân phong ra về.
Lòng hoa phấp phới đôi bề,
Vội vàng vào trước hương khuê ngỏ lời.
1695. Nhơn nhơn nét phấn thêm tươi,
Rõ ràng kể hết đầu đuôi sự tình:
Tưởng rằng trong đạo thường kinh,
“Thân bồ liễu lấy chữ trinh làm lề.
“Hay đâu sống thác chẳng nề,
1700. “Nỗi niềm nghĩ lại mà ghê gớm đời.
“Nghìn xưa âu hẳn một người,
“Ấy ai lại dám xem ai là thường.
“Vả vì chút nghĩa cũ càng,
“Dẫn thân vào chốn chiến tràng với nhau.
1710. “Bể oan tưởng có trên đầu sáng soi.
“Bây giờ lầm cát mặc ai,
“Vinh hoa riêng lấy một đời hay sao.
“Khi ăn nói, lúc ra vào,
“Nghĩ nguồn cơn ấy làm sao cho đành.”
1715. Mấy lời sắt đá đinh ninh,
Khúc tằm đem mối tơ tình gỡ ra.
Sắm sanh vội mở tiệc hoa,
Quản huyền ríu rít, ỷ la rỡ ràng.
Xe châu trăm lạng chen hàng,
1720. Gió xuân Đồng tước bàng nhường là đây.
Hội đào xưa, đã lại rày,
Tiên đưa vẻ ngọc, Ngọc vầy đoàn tiên.
Xin nhau trân trọng muôn nghìn,
Chút nào là thẹn với duyên nguyện thề.
1725. Xét cho công khoá đi về,
Nguyệt, Hương đều cũng cam bề tiểu tinh.
Nhà yên vừa dịp nước bình,
Hai sinh đều tấu đan đình vinh qui.
Cẩm hoàn một lá hồng kỳ,
1730. Lương thì quí tỉnh, Diêu thì hoàn hôn.
Diêu đường Dương nhạc hai thân,
Viện lề nhân cũng só trần minh nông.
Thênh thênh dặm tía lối hồng,
Vẻ nhuần mã gấm, hương lồng vó câu.
1735. Mảng vui cờ cuộc rượu bầu,
Cầm bên bóng nguyệt, thi đầu ngàn thông.
Viện đường thuỷ lộ thong dong,
Con thuyền lại thuận một giòng nước xuôi.
Chiều ai hoa cỏ đua tươi,
1740. Tiếng chim đâu đã sai nha đệ về.
Hương bay muôn dặm tử phần,
Tràng châu nay đã gần gần tới nơi.
Người đón rước, kẻ mừng vui,
Ghé thuyền sinh cũng tiện dời vào ngay.
1745. Phủ Diêu tiệc ngọc phô bay,
Mây lồng cờ mở, hương bay, chén kèo.
Động phòng, kim bảng đủ điều
Khi vui kể hết bao nhiêu là tình.
Đài Dương về Vọng Ba đình,
1750. Tiệc vui cũng rước hai sinh sang nhà.
Rõ ràng cỡi ngựa xem hoa,
Bức thư sớm đã sai nha đệ về.
Từ ngày tin tức đến quê,
Hai lần cáo thú đã nghe rõ ràng.
1755. Phong thư nay lại xem tường,
Tình càng thêm thoả, cảnh càng thêm thanh.
Dập dìu nghi lễ sắm sanh,
Ngựa yên khảm ngọc, xe mành ken châu.
Ngọn cờ mây rợp thôn dâu,
1760. Bồng lai xe hạc, Dương châu lưng tiền.
Tiếng thơm dậy đất sấm rền,
Cửa Lưu xa cũng nhặt truyền tin sương.
Tấc riêng mừng rỡ trăm đường,
Nhạt tanh chuyện cũ bằng đường đã quên.
1765. Kiệu hoa dạo giục rước liền,
Đành theo tình mới cho đền lỗi xưa.
Vui lòng xuân cỗi huyên tơ,
Rước mừng xem cũng bơ vơ những điều.
Đoàn viên một cuộc gấm thêu,
1770. Cúc đầy vơi chén, cầm dìu dặt cung,
Tân bằng yến ẩm vừa xong,
Thung dung Lưu mới vào trong ngỏ bày:
“Từ xưa biết lỗi đã dầy,
“Tấm lòng ngậm hổ từ rày về sau.
1775. “Vị dương một tấm tình sâu,
“Sang mừng vội tả chút sầu bấy nay.
“Hạt châu trót đã sẩy tay,
“Tự mình trăm nỗi chả hay đã đành”.
Cúi đầu nàng mới rén trình:
1780. “Rủi may, âu cũng phận mình xui ra.
“Móc mưa sấm sét cũng là,
“Cao sâu đâu nữa chẳng qua vòng trời.
“Vả trong dại dạ hèn đời,
“Trắng trong đã vậy, ngọt bùi làm sao.
1785. “Bỗng đâu rồng trúc sóng đào,
“Chia ra đã hẳn, ép vào khéo xinh.
“Vẹn tròn bên nghĩa, bên tình,
“Khuôn duyên kia đã chiều mình là may.
“Tam công chẳng đổi một ngày,
1790. “Chuyện xưa còn để đến rày sao nên”.
Giúp lời sinh cũng mở khuyên,
Thuận hoà từ đấy cũng in một lòng.
Đòi phen cợt phấn cười hồng,
Ngọc lung lay động, hương nồng nã rơi.
1795. Xuân quang cả bốn mùa trời,
Gió đưa, trăng rước, hoa mời, tuyết khuyên.
Phồn hoa bõ lúc truân chuyên,
Đã đầy phúc hậu, lại bề hiển vinh.
Ngửa vâng phượng chiếu rành rành,
1800. Lại đem gia quyến đến kinh lên chầu.
Buồm quan một lá giòng sâu,
Siêu thăng thoắt đã đứng đầu nam nha.
Quan châm chẳng chút sai ngoa,
Lộc trời chung đỉnh, gánh nhà quân dân.
1805. Gió thu gợi dạ tử phần,
Sớ từ lại thấy tỉnh thân làm lề.
Rõ ràng áo gấm về quê,
Vó câu lỏng khấu, bánh xe êm bồ.
Mạch văn còn dõi dòng nho,
1810. Hùng bi mấy giấc đã phô điềm lành.
Sởn so lan huệ nức cành,
Lễ thi cứ phép cửi canh giữ lề.
Ơn tình đủ cả hai bề,
Nẩy thân Long hạm kết nghìn Diêu môn.
1815. Phúc thường để đến nhi tôn,
Bảng vàng theo nếp, cửa son dõi đời.
Gót đầu bàn lại mà chơi,
Phong hoa hai chữ cõi đời ai không.
Lấy tình gặp gỡ đã xong,
1820. Trước sau vẹn một chữ tòng mới ghê.
Lời quê dù đã nhầm nghe,
Gác bên tình tứ giữ bề hiếu trinh.
Luân thường sáng để rành rành,
Chớ đem bác hẳn mà khinh làm thường.
1825. Nôm na đỡ chút canh trường,
Kể rồi dặn lại hai đường thế hay.
Nguyễn Huy Tự 阮輝嗣 (1743 - 1790) (lại có tên thứ hai là Yên, tự là Hữu Chi, hiệu là Uẩn Trai) quán làng Trường lưu, xã Lai thạch, tổng Lai thạch, huyện La sơn (tức Can lộc ngày nay) tỉnh Hà tĩnh. Sinh năm Quí Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thư tư đời Hậu Lê (1743), mất năm Canh Tuất (1790) khi 48 tuổi.
Dòng dõi họ Nguyễn, tị tổ là Nguyễn Uyên Hậu thi đỗ khoa Ngũ kinh Bác sĩ đời Tiền Lê, tiếp về sau nhiều đời khoa giáp, sĩ hoạn. Thân phụ là Nguyễn Huy Oánh, thi đỗ Thám hoa, làm quan Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Hoa. Khi nhỏ thông minh, có chí đọc sách, đọc nhớ hơn người, 17 tuổi đỗ Hương thí, về sau thi Hội, liên trúng tam trường; 36 tuổi được ân riêng, vua ban Tiến triều ứng vụ, và sai sung chức Hiệp lý lương hướng các đạo binh Sơn tây, Tuyên quang, Hưng hóa; lại phái làm chức Đốc đồng Hưng hóa, lập được chiến công, được thăng thưởng chức Kiểm Đốc đồng các tỉnh Sơn tây, Hưng hóa; được cải bổ chức Thanh bình Hiến sát sứ ở Sơn tây, dẹp loạn an dân, chánh thanh lừng lẫy.
Năm 1783, về cư tang nhạc mẫu ở làng, nhân khi thân phụ về hưu, tiên sinh xin ở lại hầu hạ thần hôn không ra làm quan nữa.
Trước thuật nhiều tác phẩm, song chỉ có tập "Hoa tiên ký", nguyên văn diễn ở một ca bản "Đệ bát tài tử hoa tiên ký" của Tịnh Trai tiên sinh đời Minh là được lưu truyền đến nay.