Ngọc Hân Công Chúa
Văn Tế Vua Quang Trung
Than rằng:
Chín từng ngọc sáng bóng trung tinh, ngoài muôn dặm vừa cùng trông vẻ thuỵ;
Một phút mây che vầng Thái Bạch, trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương.
Tơ đứt tấc lòng ly biệt;
Châu sa giọt lệ cương thường.
Nhớ phen bến Nhị thuận buồm, hội bái việt chín châu lừng lẫy;
Vừa buổi cầu Ngân sẵn nhịp, đoàn ỷ la đôi nước rõ ràng.
Hôn cấu đã nên nghĩa cả;
Quan san bao quản dặm trường.
Nhờ lượng trên cũng muốn tôn Chu, tình thân hiếu đã ngăn chia đôi nước;
Song thế cả trót đà về Hán, hội hỗn đồng chi cách trở một phương?
Lòng dẫu xót thấy cơn cách chính;
Thân lại nhờ gặp hội hưng vương.
Thành Xuân theo ngọn long kỳ, đạo tề trị gần nghe tiếng ngọc;
Cung Hữu rạng mầu địch phất, tình ái ân muôn đội nhà vàng.
Danh phận ấy cậy vun trồng mọi vẻ;
Nề nếp xưa nhờ che chở trăm đường.
Ơn sâu nhuần gọi cỏ cây, chốn lăng tẩm chẳng phạm chồi du tử;
Lộc nặng thơm tho hương khói, nơi miếu đường nào khuyết lễ chưng thường.
Mọi nỗi, mọi nhờ trọn vẹn;
Một điều, một được vẻ vang.
Phép hằng gìn hạc thược, tước thoa, buồng quế rạng khuôn Nội Tắc;
Điềm sớm ứng Chung Tư, Lân Chỉ, Phái Lam thêm diễn thiên hoàng.
Mảy chút chưa đền đức cả;
Gót đầu đều trọn ơn sang.
Đền Vị Ương bóng đuốc bừng bừng, lòng cần mẫn vừa khi dóng dả.
Miền Cực Lạc xe mây vùn vụt, duyên hảo cầu sao bỗng dở dang?
Ôi!
Gió lạnh buồng đào, rơi cầm nẩy sắt;
Sương pha cung đỏ, hoen phấn mờ gương.
Tiệc vầy vui nhớ hãy rành rành, nhịp ca múa bỗng khuây chừng Thần Ngự.
Buổi chầu chực tưởng còn phảng phất, chuông điểm hồi sao vắng chốn Cảnh Dương.
Vấn vít bấy, bảy năm kết phát;
Đau đớn thay, trăm nỗi đoạn trường.
Hé nhà sương ngắm quyển cung châm, tiếng chi phất hãy mơ màng trên gối.
Nương hương nguyệt, ngẫm lời đình chỉ, bóng thuý hoa còn phấp phới bên tường.
Hang núi cũng phàn nàn đòi chốn;
Cỏ hoa đều sùi sụt mấy hàng!
Liều trâm ngọc mong theo chốn châu du, da tóc trăm thân nào có tiếc.
Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương.
Tiếc thay!
Ngày thoi thắm thoắt;
Bóng khích vội vàng.
Thuyền ngự toạ đã ngang ghềnh Thái Thuỷ!
Bóng long xa thẳng trỏ lối tiên hương.
Nẻo hoàng tuyền xa cách mấy trùng, ngao ngán thêm ngừng cơn biệt duệ.
Chén hoàng thuỷ kính dâng một lễ, xét soi xin thấu cõi minh dương.
Hỡi ôi! Thượng hưởng!
Nguồn:
1. Đông Thanh tạp chí, số 5, 1932
2. Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, NXB Văn học, 2004
Ai Tư Vãn
Ngọc Hân Công Chúa
Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo (1)
Trước thềm lan hoa héo ron ron!
Cầu Tiên khói toả đỉnh non
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu!
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc
Nghĩa tôn phò vằng vặc bóng dương
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng (11)
Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu quy.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước
Chữ nghi gia mừng được phải duyên
Sang yêu muôn đội ơn trên
Rỡ ràng vẻ thuý, nối chen tiếng cầm
Lượng che chở, vụng lầm nào kể
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời
Dầu rằng non nước biến dời
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội (21)
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang
Miếu đường còn dấu chưng thường
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hoè quế
Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.
Non Nam lần chúc tuổi trời
Dâng câu thiên bảo, bày lời Hoa phong
Những ao ước trập trùng tuổi hạc
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui
Nào hay sông cạn, bể vùi (31)
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên!
Xiết bao kinh sợ lo phiền
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng!
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuộc tụ, tán, bi, hoàn kíp bấy! (41)
Kể sum vầy đã mấy năm nay
Lênh đênh chút phận bèo mây
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trong mong luống những mơ màng
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu (51)
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng!
Khi bóng trăng, lá in lấp lánh
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi:
Vội vàng dạo bước tới nơi
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn
Mặt rồng sao cách dán lâu nay!
Có ai chốn ấy về đây
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được lành?
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả (61)
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen!
Kiếp này chưa trọn chữ duyên
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ
Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao
Mà nay áo vải, cờ đào
Giúp dân, dựng nước biết bao công trình!
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn
Công đức dày, ngự vận càng lâu
Mà này lượng cả, ơn sâu (71)
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
Công dường ấy mà nhân dường ấy
Cõi thọ sao hẹp bấy hoá công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi
Buồn thay nhẽ! sương rơi, gió lọt
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa!
Tưởng lời di chúc thiết tha
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê!
Buồn thay nhẽ! xuân về, hoa ở (81)
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong!
Quyết liều mong vẹn chữ tòng
Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e.
Còn trứng nước thương vì đôi chút
Chữ tình thâm chưa thoát được đi!
Vậy nên nấn ná đòi khi
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo
Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân
Theo xa thôi lại theo gần (91)
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh
Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi!
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai.
Xưa sao sớm hỏi, khuya bày
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ! (101)
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh!
Nửa cung gẫy phím cầm lành
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đòi lúc
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương!
Não người thay cảnh tiên hương! (111)
Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông.
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược
Thấy mênh mông những nước cùng mây!
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
Trông nam: thấy nhạn sa lác đác!
Trông bắc: thấy ngàn bạc màu sương!
Nọ trông trời đất bốn phương
Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó (121)
Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung:
Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ!
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Cung xanh đang tuổi ấu sung (131)
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm
Đầu mũ mao, mình tấm ái gai!
U ơ ra trước hương đài
Tường quang cảnh ấy chua cay dường nào!
Trong sáu viện ố đào, ủ liễu
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê!
Long đong xa cách hương quê
Mong theo: lầm lối; mong về: tủi duyên!
Dưới bệ ngọc, hàng uyên vò võ (141)
Cất chân tay thương khó xiết chi!
Hang sâu nghe tiếng thương bi
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân?
Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn, ai tát cho vơi!
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng (151)
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:
Cánh hải đường đã quyện giọt sương!
Trông chim càng dễ đoạn trường:
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!
Phút giây bãi biển nương dâu
Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng (161)
Nỗi đoạn trường còn sống, còn đau!
Mấy lời tâm sự trước sau
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.
Công chúa Lê Ngọc Hân 黎玉忻 ( 1770-1799) là con gái vua Lê Hiển Tông, mẹ là Nguyễn Thị Huyền 阮氏玄 người xã Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội).
Tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 47 (1786), tướng nhà Tây Sơn là Nguyễn Huệ ra Bắc với chiêu bài “phù Lê diệt Trịnh”. Diệt xong họ Trịnh, Nguyễn Huệ tới yết kiến Lê Hiển Tông. Do sự mai mối của tướng Bắc Hà vào hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngọc Hân vâng mệnh thành hôn cùng Nguyễn Huệ. Khi đó bà mới 16 tuổi, còn Nguyễn Huệ 33 tuổi và đã có chính thất là Phạm Thị Liên. Vài ngày sau, Lê Hiển Tông băng hà, triều đình rơi vào vấn đề chọn người kế vị. Lê Ngọc Hân nghĩ anh thân hơn cháu nên ủng hộ anh là Lê Duy Cận lên ngôi, nhưng bị tông tộc nhà Lê phản đối vì muốn lập Hoàng thái tôn Lê Duy Kỳ - con của Cựu thái tử Lê Duy Vĩ lên ngôi. Do áp lực của tông tộc, Ngọc Hân phải nghe theo. Lê Duy Kỳ được lập, tức là Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, bà theo Nguyễn Huệ về Thuận Hoá.
Năm Chiêu Thống thứ 2 (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra Bắc để diệt quân Thanh, lấy niên hiệu Quang Trung, phong Ngọc Hân làm Hữu cung Hoàng hậu do chính thất Phạm thị đã được phong làm Trung cung hoàng hậu. Năm sau (1789), sau khi đại thắng quân Thanh, Nguyễn Huệ lại phong bà làm Bắc cung Hoàng hậu. Bà có hai con với Nguyễn Huệ là Nguyễn Thị Ngọc Bảo 阮氏玉寶 và hoàng tử Nguyễn Quang Đức 阮光德.
Năm Quang Trung thứ 5 (1792), Nguyễn Huệ đột ngột băng hà. Sau đó, Nguyễn Quang Toản là con bà Chính cung Hoàng hậu Phạm Thị Liên (hoặc Bùi Thị Nhạn) lên nối ngôi, niên hiệu là Cảnh Thịnh, vì thế sử còn gọi là là Cảnh Thịnh Đế. Bùi hoàng hậu do thân phận chính thất đã trở thành Hoàng thái hậu.
Theo bài “Danh nhân Lê Ngọc Hân” của Chu Quang Trứ, sau khi Nguyễn Huệ qua đời thì bà Lê Ngọc Hân mất quyền lực, và bà đưa con ra khỏi cung điện Phú Xuân, sống trong chùa Kim Tiền (Dương Xuân ở Huế) cạnh Đan Dương điện với danh nghĩa thờ chồng nuôi con. Bà gượng sống đến ngày mồng 8 tháng 11 năm Kỷ Mùi (4-12-1799) thì mất, lúc đó mới 29 tuổi.
Lễ bộ Thượng thư nhà Tây Sơn là Phan Huy Ích đã phụng chỉ soạn năm bài văn tế Lê Ngọc Hân cho vua Cảnh Thịnh Đế, cho các công chúa, cho bà Nguyễn Thị Huyền, cho các tôn thất nhà Lê, và cho họ ngoại ở làng Phù Ninh. Cảnh Thịnh Đế đã đích thân đọc trước linh sàng, với thuỵ hiệu được truy tặng là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ hoàng hậu 柔懿莊慎貞一武皇后. Cả năm bài văn tế trên còn được chép trong sách Dụ Am văn tập.
Và theo tộc phả họ Nguyễn Đình, đang khi triều Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh thừa cơ chiếm lấy kinh đô Phú Xuân, ngày 18 tháng 11 năm Tân Dậu (23-12-1801) hoàng tử Nguyễn Quang Đức mất khi mới 10 tuổi, rồi ngày 17 tháng 4 năm Nhâm Tuất (18-5-1802), công chúa Ngọc Bảo cũng mất khi mới 12 tuổi.
Nguồn: thivien.net