Thu về...
Ngân Giang
Gió thu hoa cúc gầy rồi!
(Từ Trẩm Á)
Hoa cúc gầy rồi;
Non vàng xa khơi.
Nắng hạ chóng tàn, hồ cũ muôn hương đã nhạt;
Tin thu đưa lại, ngô đồng một lá vừa rơi!...
Rặng liễu bên tường, cái gió sang mùa chớm lạnh;
Dòng sông trước cửa, trận mưa đổi tiết đầy vơi.
Sương thu giá áo;
mây thu ngang trời.
Chốn đài trang bối rối ruột tằm, trăng thu một mảnh;
Ngoài quan ải xông pha vó ngựa, sầu thu đôi nơi.
Ai nhớ mỹ nhân xa, đâu một phương trời?
Ai nhớ cố nhân xa, chừng mấy ngàn khơi?
Ngọn cờ ai phấp phới?
Bóng thuyền ai chơi vơi?
Một kiếp giai nhân, mơ thu mấy độ!
Nghìn xưa danh sĩ, cảm thu bao người?...
Những gặp nhau bên dải Ngân Hà, duyên oan thượng giới;
Rồi biệt nhau ngang cầu Ô Thước, lệ ướt trần gian.
Bến Tầm Dương trăng nước một con thuyền, ngàn tình ca nữ!
Thềm nguyệt điện xiêm y bao điệu múa, tiếc mộng quân vương.
Sông Xích Bích;
sóng Tiền Đường.
Hoa hương mấy chuyến lạc loài, ngọn triều gieo ngọc;
Danh sĩ hai lần cảm hứng, chén rượu pha sương.
Lời thêu thành gấm?
Duyên đan lỗi đường?
Trăm năm sử sách;
Nghìn thu phấn hương.
Lại nữa:
Thơ Đỗ Phủ ngâm xong mấy vận;
Bút Thiếu Lăng viết trọn tám chương.
Lau lách đìu hiu, thu hứng cao dâng với khói;
Trời mây bàng bạc, thu tình kính gửi trong sương.
Gió đến ngại ngùng bên lữ quán;
người về lững thững dưới tà dương!...
Rồi nữa:
Lợi danh vướng mắt, về thôi, vườn nở hoa vàng!
Trăng gió qua ngày, say đấy, rượu đong chén ngọc.
Chớm quạnh hơi thu;
hồ rơi tiếng móc.
Người quốc sĩ canh gà đợi sáng, lưỡi thép mài trăng;
Khách cung nhân vườn ngự chờ vua, hàng mi rơi ngọc.
Gấp hải hồ, ngọn gió vừa lên!
Vội kim chỉ, tin sương đã giục.
Thôn cũ thanh bình,
trời xa ngang dọc.
Còn mãi kiếm cung,
dám buồn tơ tóc.
Và đây:
Mây thu lạnh dòng nước Cấm Khê, bừng dâng chính khí;
Khói thu mờ đáy hồ Lãng Bạc, ngát đọng hương liên.
Đền nghĩa chị, rời thềm khuê các;
Trả thù chồng, thẳng đất Long Biên.
Chém tướng giặc, đuổi quân về ải bắc;
Mặc áo tang, rơi lệ ngự ngai vàng.
Rồi ba thu, cờ anh thư phấp phới đất Mê Linh, cỏ cây hoan lạc!
Nhung một sớm, gươm danh tướng ngang tàng trời Giao Chỉ, non nước oan khiên.
Trùng trùng sông Hát;
U uất thuyền quyên.
Đã mấy thu rồi,
trăng ngời tiết liệt;
Còn bao thu nữa,
sóng toả linh thiêng!
Trời Chiêm quốc bay hoa một cánh, mây gió còn thương;
Thôn Trữ La giũ lụa đôi chiều, ngựa xe trả ước.
Thế mà:
Mắt phượng mày ngài;
giang sơn quân quốc.
Cầu chiết liễu bâng khuâng bóng Việt;
khúc ly đình lận đận trời Ngô.
Kiệu ngọc đã xa, quan ải buồn lên tiếng địch;
Tơ lòng còn vướng, sông hồ tình gửi hơi thu.
Mờ kinh cũ, lòng già khắc khoải;
Thẳm xứ người, duyên trẻ tiêu sơ.
Trận gió vấn danh, muôn dặm Ô Ly sính lễ;
Cánh buồm khứ quốc, một trời Đại Việt tiễn đưa.
Nhìn nhau thổn thức,
trông về ngẩn ngơ.
Cánh chim thăm thẳm,
bóng thuyền mịt mờ.
Người đi: tiếng chuông thu mộ;
Kẻ về: trận gió thu sơ...
Giữa mùa lá rụng, gây trầm lên, nhớ lại chuyện xưa;
Đang lúc mưa bay, đặt bút xuống, thương người ngày trước.
Khói trầm mỏng manh;
nét thơ lả lướt.
Nơi thư viện đâu chiều nắng ấm, trăng sáng đôi lòng;
Chốn đài gương bạn với cổ nhân, sầu chung một cuộc.
Gửi vào thơ mấy điệu tâm tư;
phổ vào gió chút tình non nước.
Thu năm trước vòng ngọc tay ngà khít hẳn;
Thu năm nay áo thêu vóc liễu chùng hơn.
Trăng soi bóng lẻ,
bút giãi lòng đơn.
Ngẫm chiều thân thế,
tưởng đến nguồn cơn...
Nghìn xưa ai có như ta, gió thu thấy lạnh?
Nghìn sau những ai đó nhỉ, trăng thu có buồn?
Hướng Dương thu Giáp Thân (1944)
Nguồn: Tạp chí Tri tân, số 160, ngày 28-9-1944