Văn tế Châu Văn Tiếp
Đặng Đức Siêu
Vạc Hạ Võ mùi canh còn lạt, lòng những tưởng cậy sức diêm mai;
Tiệc trung hưng cuộc rượu đang gầy, trời nỡ khiến lìa tay khúc nhiệt.
Phong quan nầy ai chẳng ngậm ngùi;
Cơ hội ấy nghĩ càng thương tiếc.
Nhớ tướng quân xưa:
Ngọc non Côn cấu khí tinh thành;
Vàng sông Lệ đúc lòng trung liệt.
Trong thành Mãng mong lòng bội ám, gói theo kiềm sương lạnh trời Tây;
Dưới cờ Lưu quyết chí đầu minh, gương trượng nghĩa bóng ngời nước Việt.
Nghìn dặm trải lá gan Dự Nhượng, nghĩa vì quân đất võ trời gầy;
Trăm trận phơi đùm mật Tử Long, oai dẹp loạn sương sầu nắng thiết.
Trong khuôn cứu nắm quyền ngoại tả, chống giềng trời, cầm mối nước, son nhuộm tấm lòng;
Ngoài chiến chinh đeo ấn tướng quân, tru đảng nguỵ, diệt loài gian, máu dầm mũi bạc.
Đường thượng đạo ải non lần lựa, qua sông Lào, lên đất Sóc, một mình triều triệu gánh giang san;
Nẻo chiền cần sông núi gian nan, tìm chúa cũ, mượn binh Xiêm, tám cõi nhơn nhơn oai tích lịch.
Lướt sóng khua chèo Tổ Địch, đàm trung nguyên rửa sạch bợn trần ai;
Xây vai dựa gác Tử Nghi, niệm thiên địa chi dung loài tiếm thiết.
Lừng lẫy quyết lấy đầu tặc tử, danh tôi còn ngõ được vuông tròn;
Rủi ro khôn dẹp máy binh cơ, sao tướng đã bóng đà lờ lệch.
Hội mây rồng nửa phút lỡ làng.
Duyên tôi chúa trăm năm cách biệt.
Trời Thuận Hoá chằm nhạn còn xao xác, tưởng cậy người cứu chúng lầm than;
Thành Quy Nhơn tiếng cáo chửa được an, không có người hầu ai đánh dẹp.
Dân đang trông, binh đang mến, trời đất sao phụ kẻ huân lao;
Trong chưa trị, ngoài chưa an, thời vận khiến hại người hào kiệt.
Đài hoa tượng đành rành còn để dấu, tưởng hình dung lòng bắt rã rời;
Bố tấu công chồng lớp hãy ghi tên, mến công nghiệp luỵ tuông lác đác.
Ngày muôn một tưởng còn điêu bái, thân thì tạm gởi chốn long quang;
Mối ba quân nay đã tóm thâu, quan quách ngõ táng an mã hiệp.
Hỡi ơi! Thương thay!
Phục duy thượng hưởng!
Châu Văn Tiếp (1738-1784) với Đỗ Thành Nhơn (?-1781), Võ Tánh (?-1801) được người đời gọi là Gia Định tam hùng, theo Nguyễn Ánh chống nhau với Tây Sơn, bị chết trận ở trên rạch Mân Thít, Vĩnh Long, ngày 13-10 năm Giáp Thìn (1784). Đặng Đức Siêu vâng lệnh vua Gia Long làm bài văn tế nầy khi cải táng ông vào khoảng cuối năm 1803.
Cũng nên nói thêm, trong dân gian còn truyền tụng câu hò giao duyên như sau:
- Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam trung;
Hỏi ai "Gia Định tam hùng"?
Mà ai trọn nghĩa thuỷ chung một lòng.
- Ông Tánh Ông Nhơn cùng ông Huỳnh Đức
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định tam hùng...
Theo đó ông Đỗ Thành Nhơn được thay bằng ông Nguyễn Huỳnh Đức. Thuyết này khả nghi và câu hò trên có lẽ được sáng tác để làm vừa lòng Gia Long (Đỗ Thành Nhơn bị giết vì Gia Long ngại thế lực của ông).