Cao Bá Nhạ
Tự Tình Khúc
Mở Đầu:
Tỉnh giấc mộng ngâm câu ký vãng
Trải tám thu ngày tháng như thoa
Chiếc thân tựa gối quan hà
Nỗi niềm tâm sự trăng già thấu chăng?
5. Thơ cao ẩn tay đằng nên tập
Bức linh đài bút rập vào tranh
Bâng khuâng mình tiếc cho mình
Xa xa nói với xanh xanh giãi lòng
Giới thiệu gia thế
Ngòi Đức thuỷ khơi dòng kinh sử
10. Phả Cao Dương treo chữ tấn thân
Dõi đời khoa bảng xuất thân
Trăm năm lấy chữ thanh cần làm bia
Đèn Mông Chính canh khuya một ngọn
Màn Trọng Thư năm trọn nửa vây
15. Chim hồng mong chắp cánh mây
Năm xe kinh sử, một tay vẽ vời
Lửa Thái Ất, đêm soi Lưu Hướng
Cầu Thăng Tiên, ngày tưởng Tràng Khanh
Gót chân coi nhẹ vân trình
20. Văn chương giốc túi, công danh giật cờ
Nền thế nghiệp đã nhờ gia ấm
Miền hoạn đồ lại lắm thiên ân
Trước sau trải mấy mươi lần
Môn phong vẫn giữ trung cần dám sai
25. Ngẫm tiên phụ nửa đời khổ tiết
Để mai sau một ít vi danh
Hoạn giai nhỏ mọn đã đành
Trong vòng Thú, Lịnh, phẩm bình còn khen
Dấu trung ẩn in miền mây trắng
30. Chữ mục dân bóng dựng non vàng
Bức tranh treo chữ tuần lương
Ngư Dương hát lúa, Hà Dương vịnh đào
Giá cầm hạc so vào Triệu Biện
Thư phụng hoàng đưa đến Mao Khanh
35. Móc mưa ơn đội thánh minh
Thanh minh hai chữ góp danh với đời
Gia biến và lánh nạn
Vườn Lý Bạch chưa vui đào mận
Nhà Tử Văn nổi trận phong ba
Thương ôi hảo sự tiêu ma
40. Tấm lòng băng tuyết phút hoà trần ai
Mảnh bạch ngọc thiêu người khách tử
Lưỡi đoản đao cắt chữ phù sinh
Nhân gian ai kẻ thương tình
Trăm năm công luận phẩm bình về sau
45. Nỗi gia thất mặc dầu tạo hoá
Đàn nhi tôn gửi cả nhân gian
Ơn sâu dám quản thân tàn
Còn mong gò cáo hồn oan lại về
Bình dẫu phá còn lề cốt cách
50. Gương dù tan vẫn sạch trần ai
Thương thay một khóm hàn mai
Hai cành ấm lạnh ra hai tấm lòng
Giấc vinh nhục, sinh không một thoảng
Bia thị phi, để tạc còn dài
55. Thế gian kẻ khóc người cười
Muôn đời để sạch, muôn đời để dơ
Cuộc phù thế thờ ơ mịnh bạc
Chốn dạ đài chếch mác tấm son
Quyết minh há tưởng đến con
60. Tưởng khuôn phúc thiện ngẫm còn về sau
Phó ngạch tích mặc dầu sinh tử
Chắc Lý đình dạy chữ hiếu trung
Cho nên lòng cũng đành lòng
Dẫu khi biến cố còn trong cương thường
65. Mối tâm sự để gương non nước
Mảnh huyết tình giãi trước thần minh
Cầu kia ai gọi “Tận tình”
Chiếc bia “Truỵ lệ” rành rành bên sông
Đạo con lấy hiếu trung làm trọng
70. ... thường xem mỏng xem khinh
Phù sinh một sợi tơ mành
Giữ gìn di thể như hình thiên kim
Nhạn sa nước, nổi chìm bể khổ
Yến e cung, tìm đỗ cây lành
75. Đường ngang những sợ chông chênh
Khăng khăng quyết giữ tấm thành như sơn
Áo Bạch Chữ dầu cơn mưa nắng
Khăn Ô Luân đội nặng gió sương
Cành mai chếch mác càng thương
80. Câu thơ tang tử giữa đường càng đau
Ngàn non Thái một mầu mây bạc
Giạt chân bèo, lưu lạc bể oan
Gập ghềnh từng bước gian nan
Một vùng khách địa muôn vàn thương tâm
85. Lòng hiếu dưỡng trăm năm đã lỡ
Lời di danh hai chữ còn mang
Trong khi biến, chẳng khác thường
Đến điều cùng quá, lại càng kiên trinh
Thu nước mắt gia tình biếng cạn
90. Thấm mồ hôi vận hạn lâu qua
Tràng đình ngảnh lại xa xa
Khỏi cầu “chiết liễu” ai là cố nhân
Ghê chân bước phong trần mới trải
Nặng lòng ơn sơn hải chưa đành
95. Nước mây mình biết cho mình
Giời dành tuế nguyệt, đất dành điền viên
Thú thôn ổ, ao nghiên, ruộng chữ
Mầu giang sơn, cơm sử, áo kinh
Pha hoà hai chữ trọc thanh
100. Đổi mùi lữ khách, thay hình hàn nho
Người mếnh cảnh, giang hồ nên thú
Cảnh yêu người, tân chủ phải duyên
Lần hồi trong tám, chín niên
Gối nhàn tạm chợp, mối phiền tạm khuây
105. Vườn riêng, lấy cỏ cây làm bạn
Năm dài, xem yến nhạn bay qua
Song hồ ngày tháng lân la
Một hai hoàng quyển, năm ba tiểu đồng
Tráp Vĩnh Thúc, tay phong, tay mở
110. Tập Thiếu Lăng, câu lựa, câu ngâm
Thờ ơ thân thế phù trầm
Khi dong trước gió, khi nằm dưới trăng
Khuôn tạo hoá dẫu rằng phong sắc
Nợ phù sinh phó mặc bi hoan
115. Thôn cư riêng thú bàn hoàn
Đem thanh giải trọc, đem nhàn giải ưu
Túi Tư Mã giở câu thánh phú
Vườn Đào Am quyền chủ thần hoa
Mấy phen điểm xuyết yên hà
120. Cúc mươi lăm khóm, mai và bốn cây
Giấc thanh dạ, cơn say, cơn tỉnh
Ngày lưu niên, khi lạnh, khi nồng
Phần du nẻo Bắc ngừng trông
Nước non cách mấy mươi trùng xa xa
125. Câu lữ cảm, lệ hoà nét mực
Chữ gia tình, thấm tắt lòng son
Mắt trông, Vương Xán đã mòn
Tay đề, Hướng Tú vuỗn còn ngẩn ngơ
Tình ly biệt thờ ơ gấp lại
130. Mối ưu sầu gỡ mãi chưa xong
Lối oan trót mấy năm ròng
Ngày mong chữ Gấm, đêm mong chiếu Vàng
E đất khách, lỡ đường la võng
Khép cửa sài, dám lỏng gót chân
135. Bao nhiêu những sự xa gần
Hư không phó mặc bụi trần bay đi
Chữ nghĩa lý, lòng ghi, dạ tạc
Điều thị phi, mắt nhác, tai che
Cô trung quyết giữ lời thề
140. Để hồn di thể đi về cho an
Nước Châu Thuỷ đầy tràn buổi sáng
Mây Na Sơn bảng lảng ban chiều
Có ai qua lối Hoạn Kiều
Cho nhờ gửi nhắn ít nhiều bi ai
145. Tình kiều tử hôm mai đằng đẵng
Hồn quan sơn mưa nắng dầu dầu
Xa trông, tầm tã giọt châu
Gần trông, phải gượng mối sầu, ngậm cay
Gối vò võ đèn khuây đêm vắn
150. Cửa lơ thơ rèm chắn ngày thâu
Cảm hoài, khi lựa mấy câu
Nghêu ngao đồng tử tiêu sầu năm ba
Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
Đầu ngón tay máu chảy pha son
155. Người đau phong cảnh cũng buồn
Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai
Mối tâm sự rối mười phần thảm
Gánh gia tình nặng tám năm dư
Khi ngày mong bức xá thư
160. Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng
Hương thề nguyện khói nồng trước gió
Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời
Tờ oan kể hết bao lời
Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng
165. Ngẫm đời trước vốn không oan trái
Sao kiếp này vướng mãi gian truân?
Lo xa, thôi lại nghĩ gần
Thôi ngơ ngẩn sớm, lại trần trọc khuya
Ngơ ngẩn nhẽ, đường kia, nỗi nọ
170. Ngao ngán thay, phận nhỏ sầu to
Một mình riêng những đắn đo
Thường tình nhi nữ khôn dò sâu nông
Thôi, dĩ vãng, đã không kéo lại
Còn, tương lai, liệu phải đền bồi
175. Hoạ may cảm động đến giời
Lấy thân mà trả nợ đời cho thân
Dẫu đầy kiếp phong trần dám sá
Giãi được lòng khuyển mã là vinh
Một là mở tấm đan thành
180. Hai là rửa tiếng nguyệt bình chê bai
Để tiên tổ ngậm cười chín suối
May gia khương còn nối về sau
Hay ra, lại rạng cơ cừu
Hèn ra, sơn thuỷ tiêu sầu cũng khoan
185. Cho nên nỗi gian nan sá kể
Liệu rồi ra tìm thế gỡ dần
Thôn trang tìm thú ân cần
Một phần thê tử, hai phần thoả hoa
Thuật việc bị bắt
Tưởng khuây khoả ngày qua tháng tới
190. Bỗng hãi hùng gió thổi mưa chan
Nổi chìm, chìm nổi bể oan
Mấy năm hầu cạn một hơi lại đầy
Nặng kiếp trước vò giầy chi mãi
Ngẫm tình này oan trái sao cân
195. Nghĩ thân mà ngán cho thân
Một thân mang nợ mấy lần chưa thôi
Chữ bạc mịnh, ai ơi xót với
Câu đa gian, giòi hỡi thấu chăng?
Gớm thay! Ngọn lửa đốt rừng
200. Giập tàn tàn, lại bừng bừng bỗng không
Ghê cho kẻ mọc lông trong bụng
Đặt nên điều vẽ bóng ngoài môi
Ngựa hươu thay đổi như chơi
Đấu gươm ngoài lưỡi, thọc giùi trong tay
205. Gây ra sự: chia cây, rụng lá
Để cho ai: chim cá, giạt bèo
Năm ba kẻ thước người hèo
Ngõ Nhan lôi cái đan biều đập tan
Gà eo óc vừa tàn giấc mộng
210. Nhặng vo ve sực động hồn kinh
Tiểu đồng thổn thức chung quanh
Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than
Phút nửa khắc muôn ngàn thê thảm
Trong một mình bảy tám biệt ly
215. Ngảnh vào ái ngại thê nhi
Ngảnh ra án cũ cầm thi ngại ngần
Lay ngọn cúc gió dằn lăn lóc
Thấm cành mai sương khóc chan hoà
Trông hoa đau đớn cùng hoa
220. Ai ngờ từ đấy hoá ra vô tình
Áo xốc xếch nửa manh chắp nối
Tóc loăn soăn trăm mối bòng bong
Sầu dài chia nửa vào song
Bước ra dùng dắng lại trông trở vào
225. Hồn khuê phụ lao đao lặng ngắt
Người hương lân quanh quất thương thay
Bèo mây lỡ bước từ đây
Nước non tiễn khách là ngày hai nhăm
Đau đớn nỗi, kẻ thăm người hỏi
230. Ngẩn ngơ buồn, miệng nói chân đưa
Giọt phiền lai láng như mưa
Rượu nồng chẳng nhắp say sưa những sầu
Bẻ cành liễu ngâm câu ly hợp
Khuất ngàn dâu qua lớp đoản tràng
235. Bức sầu ai vẽ giữa đàng
Mây in sắc lúa nửa vàng nửa xanh
Sương thấm lối, gập ghềnh từng bước
Gió lần cành, xao xác tai nghe
Đoái trong cầu quán so le
240. Cỏ ngăn lối ngõ, cây che mái nhà
Mòn con mắt nẻo xa đằng đẵng
Chồn bước chân dặm thẳng ngùi ngùi
Sông quanh chín khúc mấy hồi
Con đường man mát mười thôi nhọc nhằn
245. Cầu Ô Mễ mấy lần mây lại
Ngàn Hương Sơn một dải núi đưa
Lối này lạc bước từ xưa
Ai ngờ thơ thẩn bây giờ lại đây
Bóng thấp thoáng yến bay buổi tối
250. Tiếng man thưa quyên gọi dặm trường
Những là sợ gió e sương
Thương thân chua xót, nghĩ đường xa xôi
Chuông cổ tự điểm hồi rộn giục
Trống quan thành vừa lúc sưu không
255. Sầu kia ai kể xiết lòng
Chiều thôi lại tối, đêm xong lại ngày
Gông ba thước đã bày lên nợ
Cũi một gian khéo giở ra trò
Mới qua là kẻ văn nho
260. Bỗng thay đổi dạng từ đồ bởi đâu
Tấm tức nỗi, ngậm sầu nuốt giận
Thổn thức thay, thở vắn than dài
Đến nay mới rõ thói đời
Giả tình trước mặt, dối nhời sau lưng
265. Trận gió thổi, vang lừng trống giục
Lối bụi mù, chen chúc quân ran
Tấm vai quẩy nặng người oan
Gần xa trăm miệng đồn vang phố phường
Bên năn nỉ người thương người hỏi
270. Ngoài xôn xao, kẻ nói, kẻ cười:
Phong tao ra dạng con người
Dịu dàng nét mặt ra loài văn nhân
Nỡ đầy đoạ phong trần nặng kiếp
Để tơ vương oan nghiệt lạ đời
275. Đã đầy một đoá hoa mai
Phẩm tiên lưu lạc trần ai lạ lùng
Nhờ nhựt nguyệt soi trong can phế
Xin giang sơn giãi vẽ tâm trường
Nặng lòng trân trọng lời thương
280. Thương nhau lá khách qua đường biết sao
Qua cửu mạch cao cao cửa đỏ
Trông lục nhai lồ lộ gác vàng
Những quen xó xỉnh điền trang
Hãi hùng nghi vệ công đường viển vông
285. Mặt bảo kính soi lòng ky lữ
Đuốc linh tê thấu chữ kỳ oan
Bức tranh vẽ bước gian nan
Thanh thiên, bạch nhựt niềm đan giãi trình
Nay phó xuống Đông Thành tạm trú
290. Mai truyền sang Bắc Lộ đuổi ra
Thân sao như gánh hàng hoa
Sớm qua chợ sớm, chiều qua chợ chiều
Người đất khách phó liều mưa nắng
Thuyền sông mê chở nặng biệt ly
295. Tràng đê một dải xanh rì
Nước trôi đỏ thắm, mây đi trắng ngần
Hồn phần tử mười phân lưu lạc
Cõi phong ba mấy bước nổi chìm
Sóng đào kêu mãi không im
300. Giọt sương rả rích hầu êm lại tràn
Dâu cao thấp, qua ngàn bến Ái
Cây mau thưa, ngảnh lại huyện Gia
Thương tâm, này nước non nhà
Cảnh còn như cũ, người đà khác xưa
305. Đường lần lút, gió đưa, mây rước
Cõi phong trần, mây ngược, nước xuôi
Sông sầu một gốc chia đôi
Lối sầu trăm dặm một thôi đoản tràng
Ô chênh chếch xế ngang non bạc
310. Sếu xa xa bay lạc ngàn xanh
Giang sơm thêm nặng ly tình
Giang thành vừa sớm, sơn thành lại hôm
Giời hầu tối hơi lam giục giã
Mây kéo cơn tầm tã sa mưa
315. Ơn trên thấm thía cho chưa?
Ơn giời trước đã mau thưa đượm nhuần
Ví đầy kiếp phong trần cho bõ
Cũng xét tình oan khổ mới nao
Dẫu rằng đất thấp giời cao
320. Người còn trăm miệng lẽ nào một thân
Nghe Hiến Chỉ truyền ran lịnh tiến:
Giục tinh sương đối diện công đình
Thực hư may được rành rành
Mười tay, mười mắt, phân minh giữa trời
Tâm sự trong ngục
325. Việc yêu quái, tăm hơi mù mịt
Điều oan vu, xương thịt báo đền
Lạc đàn trong bấy nhiêu niên
Nào ngờ thất giáo cho nên luỵ mình
Loài đồng khí đã đành nặng nợ
330. Lòng bỉnh di sao nỡ bỏ hoài
Ngón tay còn có vắn dài
Huống chi lành dữ lòng người khác nhau
Sóng bình địa, trước sau trùng điệp
Gió phi tai đơn kép giầy vò
335. Càng ngày hoạn nạn càng to
Cha con cùng một chuyến đò bể oan
Một chiếc bóng giang san giải tỏ
Bấy nhiêu lâu thôn ổ ân cần
Nhỡ nhàng đến bước gian truân
340. Dẫu là hiền trí khôn phần nài sao
Lánh cho khỏi tanh tao là quý
Giữ được điều liêm sỉ là hay
Lòng kia: đen, trắng, gian, ngay
Gió giăng bầu bạn lâu nay biết lòng
345. Đã chắc hẳn đứng không thẹn bóng
Nào tưởng đâu lá bỗng ngược cành
Chắc rằng gắn bó đan thành
Chút thân chẳng bợn hôi tanh mảy mày
Sao đến nỗi tai bay, vạ lạc
350. Thà bỏ thân đáy nước, cành cây
Thân sao? Thân đến thế này!
Mấy năm giữ sạch một ngày bụi dơ
Ơn tiên thế bao giờ báo đáp
Nợ phù sinh mấy kiếp đền bồi
355. Phù sinh thôi thế thì thôi
Dẫu thân chuộc lại cũng đời bỏ đi
Sao gia vận biến di đến thế!
Nào tiên nhân tích luỹ để đâu?
Cao cao xanh ngắt một mầu
360. Biết rằng có thấu nguyên đầu cho chăng?
Chữ khổ tiết khăng khăng cầm chắc
Nợ đa truân dằng dặc cố theo
Trước sau vẫn chút bấy nhiêu
Nặng vì cốt nhục phải liều phát phu
365. Tình phụ tử cay chua đến ruột
Nỗi thất gia đau buốt tận xương
Từ nay nhắn nhru thế thường
Ai ơi, xin chớ ngâm chương “mộng hùng”
Hồn nghĩa lý chơi dong mây bạc
370. Lệ văn chương sái lạc suối vàng
Mai sau còn kẻ tình thương
Vài thiên ai cảm, mấy chương phẩm bình
Luống tích thiện, sao không phùng thiện
Chưa minh oan, lại đến hàm oan!
375. Băng hồ rơi xuống lầm than
Thà cho một chén tân toan đi đời
Khi lên xuống Tam Thai, Bích Lạc
Lúc đi về Ngũ Nhạc, Huyền Đô
Thoảng không trăm giận nghìn lo
380. Trải chân bến Khổ, qua đò sông Mê
Còn vướng nỗi đề huề nhiều ít
Nỡ liều thân vĩnh quyết sao đành
Tiên phần còn gửi mây xanh
Xót thân lưu lạc phù bình bấy lâu
385. Nợ Đại Tạo mai sau khoan thải
Chút hiếu trung may lại báo đền
Cho nên ngậm tủi nuốt phiền
Cắn răng cố nhịn muôn nghìn thương tâm
Nhà Huyên bấy nhiêu năm lưu lạc
390. Chân bèo trôi một bước một đau
Hoặc là thấu đến cao sâu
Tấm lòng tấc cỏ mai sau còn dành
Lại còn nỗi gia đình tự tục
Đau đớn lòng cố, phục, cù, lao
395. Phúc xưa mòn mỏi thế nào?
Chút dòng thanh bạch nỡ nào mất không?
Lại đau đớn khuê phòng gối lẻ
Bỗng vì đâu chia rẽ mối tơ
Liễu bồ đôi chút cành thơ
400. Bao giờ bìu dín, bao giờ bồng mang
Đã cay đắng nhiều đường rộn rã
Lại nhục nhằn đến cả vợ con
Mấy năm chút nghĩa ôn tồn
Gieo đào, trả mận, lòng còn bâng khuâng
405. Đường kia nọ, nửa chừng bề bộn
Nỗi trước sau, trăm món ngổn ngang
Mắt kia, thác cũng còn gương
Hồn kia, muốn dứt còn vương nỗi này
Đành tiền kiếp chịu đầy lầm cát
410. Mong tái sinh nhờ hạt móc mưa
Phúc nhà còn mảnh sợi tơ
Hoạ may báo đáp còn chờ về sau
Thân nghĩ lại: cùng sầu đã chán
Số xui ra: vận nạn khôn đành
415. Ví liều quyết chẳng tiếc mình
Sạch mình đã vậy, thế tình còn nghi
Khuôn tạo hoá dẫu nguy còn phúc
Tấm linh đài khỏi nhục là vinh
Bo bo hãy gắng lấy mình
420. Bấy lâu gìn giữ sao đành liều đi
Xin tạo hoá phù trì chớ bỏ
Để thế gian xem rõ kẻo lầm
Đen nào dơ được đan thầm
Sầu nào ngăn được cao ngâm dõi ngày
425. Gần mùa hạ chim bay đuổi thỏ
Rắp đầu thu ngọn gió cuốn mây
Lọt then ngày tháng hơi may
Đồng hồ thánh thót vơi đầy năm canh
Nam Cai khuất non xanh man mát
430. Thái Hàng xa mây bạc lần vần
Hồn bay ngàn dặm cũng gần
Trong năm mươi khắc năm tần thấy cha
Chợp, sực thức, la đà gối bị
Nằm, lại ngồi, rầu rĩ chiếu manh
435. Hoá công khéo giữ nhàn tình
Đem người yên thuỷ, bó vành lao lung
Đem lần đục rẩy trong băng tuyết
Rắc bụi trần điểm vết khuê chương
Then mau khoá kín một đường
440. Hổ thân loan hạc ra tuồng chó dê
Chiếc ngựa trắng đi về góc bể
Đàn chó xanh lẻ tẻ bên trời
Một mình với bóng là hai
Rèm buông mỏng mảnh, song cài so le
445. Mòn con mắt đi về Hương Lĩnh
Ngỏ tấm lòng với mảnh phù vân
Phù vân bay lại cho gần
Gửi về Hương Lĩnh ân cần mấy câu
Ngồi tựa gối giãi sầu với gió
450. Mới đâu chừng đêm nọ tới nay
Hơi may heo hắt từ tây
Giang Nam phong vị độ này ra sao?
Năn nỉ với hai sao bến Hán
Giải tràng giang trời hạn đông tây
455. Hai sao soi biết nạn này
Xin cho thất tịch cùng ngày đoàn viên
Vừng trăng trước về miền vân thuỷ
Soi những người thiên lý tương tư
Đi qua vườn cũ lơ thơ
460. Thử xem án cũ cầm thư thế nào?
Trông đàn yến bay cao phấp phới
Sịch then song, gọi với trước mành
Tiện đây nhờ gửi chữ tình
Chờ xuân nhắn gửi chim xanh còn chầy
465. Tình nam bắc, thâu ngày qua tháng
Sầu biệt ly, vơi sáng đầy chiều
Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều
Cậy ai về nẻo “Thước kiều” hỏi tin
Quanh mao quật, gió hiên, trăng mái
470. Giải tình giang, rượu sớm, thơ chiều
Nào thơ, nào rượu, dập dìu
Trông trăng, tựa gió, đìu hiu một mình
Những say tỉnh Bắc kinh mưa gió
Vẫn mơ màng phòng cũ chiếu chăn
475. Gối sầu cách áng mây Tần
Băn khoăn tay áo, chân quần ở đây
Án nọ nưng ngang mày sớm tối
Nay tháng ngày no đói với ai
Gió thu một tiếng bên tai
480. “Thuần lư” sực nhớ đến mùi Giang Nam
Kìa ngọn núi in làm bút giá
Nọ đám mây trang điểm chữ tình
Bút xưa trang điểm chữ tình
Bình thi cuốn gửi Hồ Đình bấy lâu
485. Tưởng thư viện những sầu cách diễn
Nghĩ hoa viên càng ngán xa xôi
Giếng vàng một tiếng thu rơi
Quan sơn nghìn dặm mấy hồi tương tư
Rắp mượn cá đem thư thăm hỏi
490. Thoắt nghe chim tựa gối ngẩn ngơ
Trông hoa luống nặng tình xưa
Tiếc hoa luống ngại nắng mưa giãi giầu
Dễ khuây khoả trăm sầu ngàn giận
Những sụt sùi thở ngắn than dài
495. Biệt ly ai kể xiết lời
Vì hoa cách mặt cho người thương tâm
Người đưa rượu hỏi thăm Bành Trạch
Kẻ say trăng tìm khách Đào Chu
Nào ai trang điểm mầu thu
500. Hoa vàng, chén bạc, tạc thù với ai?
Miền Dữu Lĩnh tin mai gắn bó
Đỉnh Cô Sơn mối gió đợi chờ
Muốn mang chén rượu câu thơ
Lạnh lùng trong tuyết, hững hờ dưới trăng
505. Chồi “tiểu mạch” vừa chừng hơn trước
Tay chủ nhân ngày trước vun trồng
Dẫu khi sương tuyết lạnh lùng
Xa xôi dám phụ tấm lòng kiên trinh
Mây vô định bay quanh ngoài mái
510. Trăng hữu tình soi lại trước sân
Non đông tin tức cách ngần
Tường vi rầy đã bấy lần khai hoa
Nhắn hỏi tiễn xuân là mấy khóm
Vẻ tiên hồng trang điểm nhường nao?
515. Lầu trang gió bỡn, trăng chào
Kim thoa đưa nhớ, tiễn đau, cắt buồn
Vườn thược dược thâu mòn cửa trúc
Rẫy ba tiêu chen chúc song hồ
Biệt ly vắng ngắt cảnh thu
520. Thanh cư ai vẽ nên đồ “Võng Xuyên”
Nhắn hỏi đến mộc liên hai ngọn?
Phóng tin hoa gần gặn gió may
Hoa kia hãy nhắn thu này
Buổi thu còn vắng người say trước đình
525. Tiếng tất suất bên mình giục giã
Ngọn trà mi trước giá lơ thơ
Buổi thu chớ ngại công chờ
Con ong, cái kiến ỡm ờ giới thay
Nhờ tin gió hỏi cây thạch lựu
530. Thu hầu sang hạ cửu gần qua
Đan tâm còn chút gọi là
Giữ gìn băng ngọc đừng pha bụi trần
Đường hoa trải mùi xuân lác đác
Cánh loan tiên bay lạc lối ngoài
535. Với ai khoe tía khoe tươi?
Chậu vàng ngần ngại những người nghiên sương
Tưởng sơn trúc thạch sương đã ngán
Hỏi hồ đào long nhãn càng đau
Hồng mai rả rích giọt châu
540. Hững hờ sương tảo, giãi giầu sương cam
Góp trăm mối đem làm tâm sự
Tính trăm hoa đầy cả gió sương
Chập chờn say tỉnh giữa đường
Hoa kia có biết đoạn trường này chăng?
545. Nỗi ly hận nói năng sao xiết
Tình tương tư nào biết bao nhiêu
Tính xem ly biệt ít nhiều
Thương cho mai cúc nặng điều tương tư
Nhờ trận gió gửi thư thăm hỏi
550. Mượn bóng trăng giãi nói ân cần
Giá đành phong nguyệt chủ nhân
Nỡ nào đầy đoạ phong trần xót thương
Xin hoa chứa phong quang như cũ
Chủ nhân còn đoàn tụ có khi
555. Trả cho sạch nợ lưu ly
Tân toan rửa hết đến kỳ cam lai
Gửi tình trọng thay lời thương nhớ
Cậy đồng tâm lo đỡ ít nhiều
Có khi lau chuốt “đan biều”
560. Khi trưa phơi sách, khi chiều tưới cây
Lúc thanh hạ đặt bày giá bút
Buổi rồi dài lâu chuốt án thơ
Dưới đèn giở thước, xe tơ
Sửa sang áo rét đợi chờ thu qua
565. Tình khuê các gần xa lắm nỗi
Người quan sơn sớm tối một mình
Trông về trời bể mông mênh
Lúc đi còn vướng mối tình tư quy
Ngàn Nam Mẫu vừa khi canh tác
570. Dải Tây Giang ngọn nước đầy vơi
Dưới trăng thuyền trúc thảnh thơi
Phong lưu năm ngoái là người năm nay
Kết thúc
Xếp tình cũ từ đây trở lại
Hoài công đâu kể mãi việc nhàn
575. Đã đành hội, biệt, bi, hoan
Mặc khuôn tạo hoá tuần hoàn nghĩ chi
Chữ thông, tắc, phải tuỳ sở ngộ
Lẽ thị, phi, không hổ với đời
Chiếc thân đứng giữa cõi người
580. Trên trời: nhật nguyệt, dưới trời: sơn xuyên
Chứa trong bụng đầy thiên kinh sử
Đội trên đầu nặng chữ quân thân
Bầu băng, giá ngọc, trắng ngần
Dẫu dầm giọt nước phong trần chẳng hoen
585. Lối kim cổ là miền liêm sỉ
Bi thị phi còn để nhục vinh
Mắt tai hiền truyện, thánh kinh
Lẽ đâu cầm độc ô danh quan thường
Nhờ tạo hoá rộng đường phúc trạch
590. Giăng thiên la vét sạch hung ngoan
Một phen cười với thế gian
Rồi ra “tuỳ ngộ nhi an” xin đành
Hãy đem món thường tình xếp lại
Tạm tính điều thế trái để ra
595. Đêm đêm lạy hỏi trời già
Thân này ô trọc hay là thanh cao?
Còn tiên thế ít nhiều dư phúc
Chắc linh đài chín khúc đan tâm
Hoá cơ vãng phục chẳng lầm
600. Để cho tác thiện lục trầm lẽ đâu?
Thu nước mắt nghĩ câu “thận độc”
Rong ngọn đèn ngâm khúc “mạc ai”
Bút nghiên tiêu khiển ngày dài
Chẳng vì tân khổ bỏ hoài quang âm
605. Nhân thong thả lại ngâm quốc ngữ
Đem thuỷ chung tình tự nói năng
Nôm na câu được câu chăng
Đỡ khi buồn bã lại dâng một cười
Cao Bá Nhạ (?-?) người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông là con Cao Bá Đạt và là cháu Cao Bá Quát. Hiện chưa biết Cao Bá Nhạ có đỗ đạt và làm quan không, chỉ biết ông là người giỏi việc văn chương. Năm 1855, sau khi cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do chú ruột của ông là Cao Bá Quát lãnh đạo thất bại, dòng họ Cao chịu hình phạt tru di tam tộc, thì ông phải cải dạng đổi tên chạy trốn khắp nơi. Cuối cùng, ông ẩn cư ở vùng Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) và kiếm sống bằng nghề dạy học. Ở đây, ông lấy vợ sinh con, nhưng chỉ sống yên ấm được khoảng tám năm thì bị tố giác. Ông bị bắt và bị giải qua các nhà lao ở Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh. Trong ngục, Cao Bá Nhạ viết một bài biểu trần tình (Trần tình văn) và một khúc ngâm (Tự tình khúc) trình lên nhà cầm quyền để tự minh oan cho mình, nhưng vẫn bị triều đình Huế đày lên mạn ngược (không tài liệu nào ghi địa danh cụ thể) và rồi chết ở đấy.
Hiện chỉ mới tìm thấy hai tác phẩm của Cao Bá Nhạ, đó là:
- Trần tình văn hay còn gọi là Cao Bá Nhạ trần tình trạng. Đây là một bài biểu bằng chữ Hán, theo lối tứ lục.
- Tự tình khúc được viết bằng chữ Nôm theo lối song thất lục bát dài 608 câu.